Sunday, November 3, 2019

Vụ tiêu diệt thủ lĩnh IS và tương lai chính trị của Tổng thống Mỹ Donald Trump

Cái chết của thủ lĩnh IS al-Baghdadi đến vào thời điểm không thể thích hợp hơn, khi mà Tổng thống Mỹ đang đối mặt với cáo buộc bỏ rơi đồng minh người Kurd tại Đông Bắc Syria và nguy cơ bị phe Dân chủ luận tội. Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng, việc triệt hạ thủ lĩnh IS sẽ không khiến các nghị sĩ bớt tập trung vào cuộc điều tra đối với ông Trump.
ảnh 1
Nhiều người đã ca ngợi Tổng thống Donald Trump về thành công của chiến dịch tiêu diệt thủ lĩnh IS. Ngay cả thượng nghị sĩ Lindsey Graham của đảng Cộng hòa, người từng chỉ trích mạnh mẽ việc Tổng thống rút quân khỏi Syria, cũng bày tỏ lời khen ngợi: “Cuộc chơi đã thay đổi. Đây là thời điểm nên tự hào về quân đội Mỹ cũng như các cơ quan tình báo của chúng ta. Và đây cũng là thời điểm mà những người chỉ trích ông Trump nhiều nhất nên nói: Ông làm tốt lắm, Tổng thống”.
Tăng lợi thế tranh cử
Việc tiêu diệt một trùm khủng bố khét tiếng sẽ giúp nâng cao đáng kể uy tín của Tổng thống Trump, đặc biệt là khi cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 2020 đang đến gần. Chiến dịch đột kích tiêu diệt thủ lĩnh IS al-Baghdadi diễn ra trong bối cảnh chỉ còn 1 năm trước cuộc bầu cử mà ông Trump muốn tái đắc cử thêm một nhiệm kỳ nữa. Hãng thông tấn Reuters (Anh) cho biết, Tổng thống Trump có thể tận dụng thành tích tiêu diệt thủ lĩnh IS để lấy cảm tình của cử tri trong cuộc vận động tranh cử năm tới, bên cạnh thành tích về kinh tế Mỹ trong thời gian ông ngồi ở Nhà Trắng.
Gần đây ông Trump có nhắc lại, cựu Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis cho rằng việc đánh đuổi IS sẽ mất khoảng 2 năm, nhưng ông chỉ mất hơn 1 tháng. Còn với al-Baghdadi, ông đã tìm kiếm hắn 3 năm nay, chứng tỏ ông xem trọng mục tiêu này đến thế nào. Rõ ràng là ông Trump hy vọng thành công của chiến dịch sẽ tạo tiền đề để ghi điểm trước các cử tri vẫn còn đang phân vân về năng lực lãnh đạo của ông. Học giả Lanhee Chen đến từ Viện Hoover nói: “Tôi nghĩ việc này sẽ không thay đổi quỹ đạo chính trị của chúng ta, nhưng không nghi ngờ gì nữa, nó là một chiến thắng của Tổng thống”.
Chiến công tiêu diệt al-Baghdadi là một lợi thế mà chỉ Tổng thống Trump mới có được. Tờ New York Times nhận định, với Tổng thống Trump, tác động tích cực từ việc tiêu diệt al-Baghdadi là điều gần như chắc chắn, bởi IS từ lâu đã được biết đến là một cái tên gieo rắc kinh hoàng cho người dân Hợp chủng quốc với hàng loạt vụ khủng bố và video hành quyết con tin mang quốc tịch Mỹ. Tổng thống Trump tự nhận rằng, chiến dịch này còn lớn hơn sự kiện tiêu diệt trùm khủng bố Osama Bin Laden. Có một sự trùng hợp đến ngạc nhiên, chiến dịch tiêu diệt trùm khủng bố Al-Qaeda năm 2011 đã trở thành một trong những bước ngoặt cho chiến dịch tái tranh cử của Tổng thống Obama vào năm sau đó.
ảnh 2Hiện trường vụ tiêu diệt trùm khủng bố IS al-Baghdadi ở Idlib, Syria
Thông điệp về chính sách đối ngoại 
Cũng trong bài phát biểu với phóng viên ngày 27-10 tại Nhà Trắng, Tổng thống Trump nhấn mạnh rằng, với việc  al-Baghdadi đã chết, giờ đây thế giới đã trở nên an toàn hơn rất nhiều. Đối với ông Trump, cái chết của al-Baghdadi là minh chứng cho sự khôn ngoan của chiến lược bảo vệ nước Mỹ từ nội địa mà không cần phải đưa lính Mỹ tham gia vào những “cuộc chiến không hồi kết” ở nước ngoài.
Dù vậy, có một thực tế là, bất chấp việc rút gần như toàn bộ 1.000 binh sỹ khỏi Syria, Lầu Năm Góc lại có kế hoạch điều xe tăng và lực lượng chiến đấu tới Đông Bắc Syria, viện dẫn lý do cần bảo vệ các giếng dầu mà người Kurd đang kiểm soát khỏi nguy cơ rơi vào tay IS. Điều này là một ngoại lệ đối với quy tắc “không binh sỹ” của Trump.
Trong khi đó, truyền thông Mỹ mấy ngày qua đã có nhiều bài bình luận, đã đến lúc nên thừa nhận tất cả những gì Washington muốn ở Syria là dầu mỏ “đáng giá”.
Việc giết al-Baghdadi phần nào nhấn mạnh thông điệp chính sách đối ngoại đơn giản mà ông Trump đang tạo ra cho chiến dịch tái tranh cử của mình, đó là: Ông hoàn toàn có thể đánh bại IS tại Trung Đông, và ở vùng đất đó, Mỹ sẽ rút quân trừ khi đó là lợi ích kinh tế trực tiếp của nước Mỹ. “Ưu tiên số 1 của chính quyền ông Trump trong chính sách Syria là thâu tóm các nguồn dầu mỏ của nước này” - Benjamin Hart, tác giả một bài viết trên Tạp chí New York hôm 25-10 viết.
Mỹ chưa từng có ý định “trả” các vùng lãnh thổ nhiều dầu mỏ ở Syria cho chính quyền Damascus. Ý định càng được thể hiện rõ khi Tổng thống Trump hôm 27-10 cũng đã bày tỏ muốn “thỏa thuận với Exxon Mobil hoặc 1 trong những công ty lớn của Mỹ vào cuộc” và khai thác các giếng dầu ở Syria một cách phù hợp.
Trong khi đó, Bộ Quốc phòng Nga ngày 26-10 đăng tải các dữ liệu vệ tinh cho thấy, người Kurd đang khai thác và buôn lậu dầu mỏ ở Syria ra ngoài quốc gia này “với sự bảo hộ của lính Mỹ và nhà thầu quốc phòng tư nhân Mỹ”. Một người phát ngôn Bộ này cho biết, các hoạt động buôn bán dầu mỏ phi pháp mà Mỹ giám sát này đem lại doanh thu hơn 30 triệu USD/tháng, đồng thời gọi đây là “thổ phỉ quốc tế”.
Không đẩy lùi được điều tra luận tội 
Cũng có quan điểm cho rằng, cái chết của trùm khủng bố al-Baghdadi không có nghĩa là tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng đã bị triệt tiêu trong khi ông Trump chưa có chiến lược nào cho khu vực Trung Đông. Ông cũng bị chỉ trích đã phá vỡ truyền thống vì không báo cáo sơ lược về cuộc đột kích đến các nhà lãnh đạo cao nhất của Quốc hội Mỹ. Bên cạnh đó, cái chết của al-Baghdadi được đánh giá là thành tựu quan trọng của Tổng thống Donald Trump, nhưng có nhiều ý kiến cho rằng, điều này không có tác dụng thay đổi cục diện cuộc điều tra luận tội ông.
Tin tức về cái chết của al-Baghdadi lan khắp thế giới vào thời điểm ông Trump phải đối mặt với cuộc điều tra luận tội từ đảng Dân chủ. Giới chức đảng này cho rằng, Tổng thống Trump đã đề nghị người đồng cấp Ukraine Volodymyr Zelensky chỉ đạo mở cuộc điều tra nhằm vào con trai ông Joe Biden, qua đó tạo lợi thế cho ông Trump trong cuộc đua tái tranh cử Tổng thống năm 2020.
Đúng như dự đoán, ngày 31-10, Hạ viện Mỹ bỏ phiếu thông qua nghị quyết tiến hành việc điều tra luận tội, gây sức ép lên Tổng thống Donald Trump trước cuộc bầu cử năm 2020. Như vậy là lần thứ 3 trong lịch sử hiện đại, một Tổng thống Mỹ đương nhiệm bị đưa ra luận tội. Ngay sau đó, Tổng thống Trump đã có một loạt tuyên bố phản ứng trên mạng xã hội Twitter. Ông chỉ trích “trò lừa đảo”, “cuộc săn phù thủy” của phe Dân chủ không phải vì sự thật và công lý mà vì lo sợ và căm ghét ông.
ảnh 3 “Việc Tổng thống Donald Trump xuất hiện trên truyền hình thông báo về thành công của chiến dịch tiêu diệt trùm khủng bố IS Abu Bakr al-Baghdadi giống như chiếc dây đai an toàn trong cuộc chiến sinh tồn chính trị của ông. Không còn nghi ngờ gì nữa, một ông Trump bị tổn thương, bị tấn công tứ phía, lại đang mất niềm tin của các đồng minh chính trị, giờ đã được củng cố rất nhiều”.
Bình luận của tờ Guardian (Anh)

Friday, October 4, 2019

Chiến thuật "biến vùng biển không tranh chấp thành tranh chấp" trong mưu đồ độc chiếm Biển Đông

- Bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của Việt Nam và dư luận quốc tế, Trung Quốc tiếp tục đưa nhóm tàu Hải Dương 8 trở lại xâm nhập và mở rộng hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
ảnh 1Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi hợp pháp của Việt Nam tại Biển Đông bằng các biện pháp luật pháp quốc tế cho phép
Bước đi mới trong chiến lược từng bước độc chiếm Biển Đông

Đây là lần thứ 4 kể từ tháng 7-2019, các tàu Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động này đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam được xác lập phù hợp với các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.
Không khó khăn gì để có thể thấy rằng việc làm sai trái trên của Trung Quốc là bước đi mới nhất trong chiến lược từng bước độc chiếm Biển Đông mà Trung Quốc dự tính từ lâu. Kế sách để thực hiện mục tiêu đó là chiến thuật “biến vùng biển không tranh chấp thành tranh chấp” ở Biển Đông.
Trước hết, Trung Quốc tự vẽ ra “Đường lưỡi bò 9 đoạn”, hay còn gọi là “Đường chữ U” bất hợp pháp chiếm tới 80% diện tích Biển Đông, đồng thời tuyên bố kiểm soát toàn bộ tài nguyên, vùng trời, vùng biển, đáy biển trong khu vực “Đường chữ U”.
Theo quy định của UNCLOS, các nước ven biển có quyền thiết lập vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Các nước cũng đồng thời xác định thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền cho đến mép ngoài của rìa lục địa.
Dựa trên các quy định của UNCLOS, Việt Nam đã xác định vùng đặc quyền kinh tế của mình. Ngày 7-5-2009, Việt Nam cùng với Malaysia đã đệ trình hồ sơ chung về ranh giới thềm lục địa kéo dài ngoài 200 hải lý từ đường cơ sở lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc, trước thời hạn cuối cùng là ngày 13-5-2009 mà UNCLOS yêu cầu các nước thành viên thực hiện. Tại khu vực bãi Tư Chính mà nhóm tàu Hải Dương 8 nhiều lần xâm nhập, năm 1989, Việt Nam đã xây dựng cụm dịch vụ kinh tế - khoa học kỹ thuật DK1 thuộc địa phận hành chính tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để khẳng định các quyền của mình theo UNCLOS.
Không có báo cáo ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lý với Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc, tự áp đặt “Đường chữ U” chiếm tới 80% diện tích Biển Đông, Trung Quốc ngang nhiên đặt yêu sách chủ quyền của mình ở Biển Đông lấn vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước khác, trong đó có Việt Nam. Vùng biển vốn không bị tranh chấp của một nước bỗng nhiên trở thành vùng biển tranh chấp bởi yêu sách “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
Trên cơ sở yêu sách đó, năm 1992, Trung Quốc ký hợp đồng cho phép Công ty Crestone (Mỹ) thăm dò khai thác trên vùng biển rộng 25.000m2 chồng lên bãi Tư Chính của Việt Nam. Trung Quốc cho rằng vùng này nằm trong yêu sách “Đường lưỡi bò”. Năm 2011, các tàu hải giám Trung Quốc lại uy hiếp, cắt cáp tàu Bình Minh 02 cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) 120 hải lý, nằm hoàn toàn trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam nhưng Trung Quốc lại coi thuộc “Đường lưỡi bò”.
Phương cách thứ hai để Trung Quốc đưa ra yêu sách đối với vùng biển của nước khác là tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Pratas, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và bãi ngầm Macclesfield với tên gọi lần lượt là Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa. Thay vì được xem là một nhóm các thực thể tranh chấp, Trung Quốc coi mỗi nhóm đảo và đá ngầm này là một quần đảo gồm nhiều thực thể khác nhau, với ranh giới biển cụ thể, có chủ quyền và quyền được xác lập xung quanh đó một vùng đặc quyền kinh tế.
Năm 1988, Trung Quốc chiếm 7 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, và từ năm 2014 đến nay ồ ạt bồi đắp các bãi đá này thành các đảo nhân tạo với diện tích trên 13km2 (chiếm khoảng 95% tổng diện tích các đảo tự nhiên và đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa), trong đó 3 đảo có đường băng dài 3.000m. Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), có trụ sở tại Washington (Mỹ) đã phân tích các hình ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy có nhiều đường băng, chỗ đỗ máy bay, các điểm radar và bệ phóng tên lửa đất đối không trên 3 thực thể - đá Subi, đá Vành khăn và đá Chữ Thập.
Hành động vi phạm nghiêm trọng UNCLOS
Đi liền với hoạt động quân sự hóa các đảo nhân tạo trên Biển Đông, Trung Quốc còn ngăn cản Việt Nam hợp tác với các đối tác nước ngoài thăm dò và khai thác dầu khí tại vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Họ ngang nhiên coi vùng EEZ của quốc gia khác như của mình, mà điển hình là vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 trong vùng EEZ của Việt Nam năm 2014.
Từ năm 2017, Trung Quốc chuyển sang giai đoạn tăng cường thách thức và ngăn chặn hoạt động thăm dò dầu khí mà Việt Nam tiến hành tại vùng EEZ của mình, điển hình như các dự án xung quanh bãi Tư Chính mà Việt Nam hợp tác với các công ty nước ngoài như Repsol (Tây Ban Nha) và Rosneft (Nga). Việc đưa nhóm tàu Hải Dương 8 hoạt động trái phép ở khu vực bãi Tư Chính từ tháng 7-2019 cũng chính là nhằm ngăn cản các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của Việt Nam tại khu vực giàu tiềm năng dầu khí này.
Việc làm của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng UNCLOS mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Tháng 6-2016, Tòa Trọng tài Thường trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc đã phán quyết rất rõ ràng rằng, dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Toà Trọng tài kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “Đường lưỡi bò 9 đoạn”.
Tòa Trọng tài cũng đã phán quyết rằng, tất cả các cấu trúc nổi tại Trường Sa đều là “đảo đá” về mặt pháp lý và không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Như vậy, có thể khẳng định dứt khoát rằng, Trung Quốc không hề có vùng biển hợp pháp nào có thể chồng lấn hay tranh chấp với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phía Nam của Việt Nam, nơi nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 đã xâm phạm trái phép hồi đầu tháng 7 vừa qua. Lập luận gom bãi Tư Chính vào cái gọi là “chủ quyền bất khả xâm phạm” của Trung Quốc hoàn toàn trái ngược với những quy định của UNCLOS, và đặc biệt đã bị phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực bác bỏ.
Cho đến nay, Trung Quốc một mặt không chấp nhận phán quyết của Tòa Trọng tài, mặt khác khăng khăng từ chối sự hòa giải hay can thiệp từ bên ngoài. Bắc Kinh muốn giải quyết các tranh chấp dưới hình thức song phương từ quan điểm sức mạnh và tìm cách định hình câu chuyện về hòa bình và sự ổn định theo quan điểm của riêng mình. Hành động này nằm trong chiến lược của Trung Quốc áp đặt “Đường lưỡi bò” bất hợp pháp tại Biển Đông để ngăn cản tất cả các đối tác quốc tế nào muốn hợp tác dầu khí với các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Mục đích này của Trung Quốc được hé lộ khi Bắc Kinh đưa ra một đề xuất trong dự thảo khung Bộ quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC) mà ASEAN và Trung Quốc thông qua vào tháng 8-2018.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định rõ, việc nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc tiếp tục mở rộng hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam được xác lập phù hợp với các quy định của UNCLOS mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Việt Nam kiên quyết phản đối hành động này và đã có giao thiệp với phía Trung Quốc. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay vi phạm, rút toàn bộ nhóm tàu nói trên ra khỏi vùng biển Việt Nam và không để tái diễn hành động vi phạm tương tự. Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi hợp pháp của Việt Nam tại Biển Đông bằng các biện pháp luật pháp quốc tế cho phép.

Wednesday, September 11, 2019

9/11 BẠN CÓ BIẾT ?



Ngày 11 tháng 9 năm 2001, khủng bố đã hạ  gục hai toà nhà World Trade Center tại New York mang theo sinh mạng của  hơn 3000 người dân vô tội, cùng một số rất đông cảnh sát, và lính cứu hoả đang thực hiện cuộc cấp cứu.
 World Trade Center sụp đổ thành những đống thép, gạch vụn khổng lồ, và  chính phủ Hoa Kỳ đã làm một việc rất ý nghĩa. Chính phủ cho gom và sử dụng tất cả những săt và thép vun đó để chế tạo làm thành một chiến hạm  đặt tên là USS NEW YORK.

 Tám năm sau, ngày 7 tháng 9 năm 2009, chiến  hạm tối tân trị giá 1 tỷ đô USS NEW YORK đã hoàn tất và khởi hành  chuyến đầu tiên về đất mẹ, tiến vào cảng New York giữa sự chào đón nồng  nhiệt và cảm động của toàn cư dân New York city, nhất là thân nhân của  những người bị nạn ngay tại World Trade Center ngày ấy.

 Trong mỗi gram của 7.5 tấn thép vụn trong chiến hạm USS New York đó đều có một chút thịt,  da, máu, và xương của hơn 3000 người đã ngã gục tại hiện trường.

 USS  New York sau đó sẽ ra khơi với nhiệm vụ được giao phó từ Hải Quân Hoa  Kỳ. Như vậy, tuy những nạn nhân WTC đã nằm xuống, nhưng thịt xương của  họ vẫn luôn luôn sống còn trong khối thép khổng lồ của chiến hạm USS New  York sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước và lý tưởng tự do của Hoa  Kỳ.

 Lets salute USS NEW YORK.

Thursday, September 5, 2019

15 Loại Hoa Màu Đen Đẹp Tuyệt Trần

Hellebore

Purple Calla Lily

Bat Orchid


Black Pansy


Black Dahlia

Black Petunia

Chocolate Cosmos


Viola ‘Molly Sanderson’


Black Baccara Rose

Physocarpus Opulifolius ‘Diabolo’ syn. ‘Monlo’


Iris ‘Before the Storm’


Black Widow Cranesbill Geranium

Chocolate Lily


Black Hollyhock

Nguồn: Internet

Hoàng Chi Phong - Chúng Tôi Khát Khao Một Ngày Hồng Kông Thoát Khỏi Độc Tài


Ngày 30/8, Hoàng Chi Phong (trái) và Chu Đình (nữ) đã bị cảnh sát Hồng Kông bắt giữ. Trước đó một ngày, người sáng lập đảng Dân tộc Hồng Kông Trần Hạo Thiên cũng bị bắt giữ tại sân bay. (Ảnh Từ Epoch Times)

 “Một làn sóng đàn áp chính trị đang diễn ra ở Hồng Kông, nơi nhân quyền và tự do của chúng tôi đang mấp mé trên bờ vực sụp đổ. Thế giới không thể tiếp tục im lặng.

Trong vòng 30 giờ đồng hồ, những kẻ côn đồ đã tấn công đội ngũ tổ chức biểu tình và cảnh sát tiến hành bắt giữ hàng loạt những nghị sĩ và các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ, bao gồm cả tôi. Quyền biểu tình của chúng tôi đã bị cùm lại, trong khi chính quyền cấm một buổi tập trung ôn hòa đã được lên kế hoạch vào ngày 31/8.

Cùng lúc đó, chính phủ dường như muốn kiểm tra phản ứng của công luận về ý tưởng họ sẽ kích hoạt điều luật tình trạng khẩn cấp đã lạc hậu từ lâu. Việc này sẽ cho phép trưởng đặc khu quyền lực to lớn như kiểm duyệt báo chí, tiến hành bắt bớ quy mô lớn và ngay lập tức thiết quân luật một phần của thành phố này – tất cả chưa cần tới trợ giúp của Quân Giải phóng Nhân Dân Trung Quốc.

Trong khi đó, binh lính Trung Quốc và các phương tiện thiết giáp được di chuyển tới biên giới Hồng Kông, sẵn sàng tiến vào “trong vòng 10 phút”, theo đúng lời của quân đội Trung Quốc.

Tất cả những hành động này có mục đích là để đe dọa người Hồng Kông, khiến họ sợ hãi và quy phục. Nhưng có phải nhà cầm quyền thực sự nghĩ rằng chúng tôi sẽ ngậm miệng và giữ im lặng, hay chúng tôi sẽ đứng lên và chiến đấu?
Một làn sóng đàn áp chính trị đang diễn ra ở Hồng Kông, và nhân quyền cùng tự do của chúng tôi đang đứng trên bờ vực sụp đổ.

Chúng tôi hoàn toàn lên án chiến dịch độc ác của bạo lực này và những phát ngôn từ giáo điều từ thời Liên Xô dán nhãn chúng tôi là “những gián điệp ăn tiền của thế lực nước ngoài”. Ngày này qua ngày khác, chính quyền đang tiến gần hơn đến việc sử dụng quân bài cuối cùng của họ.

Nhưng người dân sẽ tiếp tục chiến đấu, bởi vì trận chiến này là vì tương lai của Hồng Kông. Chúng tôi không muốn thấy một Hồng Kông chỉ có tự do trên giấy, nơi mà địa vị tự trị chỉ là cái vỏ bọc của một nhà nước độc tài toàn trị.

Vì tương lai của chúng tôi mà những người trẻ sẵn sàng trả cái giá cuối cùng trong cuộc chiến của mình. Rất nhiều người biểu tình – những em thiếu niên, một số vẫn học trung học – bây giờ đang mang theo “di nguyện và chúc thư” trong cặp trước khi lao lên tuyến đầu của cuộc biểu tình. Nỗ lực vì hòa bình được viết bằng máu của họ. Một số đã tự tử, đã trở thành nạn nhân của sự độc ác của cảnh sát, thành mục tiêu của những cuộc tấn công của các băng nhóm côn đồ tàn bạo và bừa bãi.

Trưởng Đặc khu Hồng Không Carrie Lam đã gạt ra bên lề những người trẻ bằng tuyên bố “họ không có đóng góp gì cho xã hội”. Về chúng tôi, chúng tôi xin hỏi lại bà rằng:

Ai là người không cho phép người trẻ có “đóng góp gì” cho xã hội?

Ai đã cấm người trẻ, những ứng viên được bầu chọn một cách dân chủ, tham gia vào chính trị?

Ai đã quyết định phớt lờ nguyện vọng của nhân dân và đưa ra dự luật dẫn độ bị ghét bỏ ngay từ đầu?

Câu trả lời là: một chính phủ được lựa chọn một cách phi dân chủ. Những người trẻ thay vì được coi là những cột trụ tương lai của xã hội, đã bị tước bỏ bất cứ tiếng nói nào khi một quyết định hệ trọng được đưa ra, bất chấp việc họ là những người sống lâu nhất với hậu quả từ những quyết định đó.

Cách duy nhất để ổn định trở lại Hồng Kông là Bắc Kinh phải trao cho chúng tôi quyền bầu cử tự do và công bằng tại thành phố này – đây là một trong 5 yêu cầu của phong trào chống luật dẫn độ. Họ phải đưa ra một chương trình cải tổ chính trị bao hàm việc cho chúng tôi quyền lựa chọn trưởng đặc khu và bầu chọn toàn bộ vị trí trong nghị viện thành phố, tức hội đồng lập pháp. Phổ thông đầu phiếu đã được hứa hẹn dưới nguyên tắc “một quốc gia, hai chế độ” thiết lập trong sự kiện trao trả Hồng Kông năm 1997.

Sự tức giận của chúng tôi không chỉ là vì dự luật dẫn độ; sự phẫn nộ này là vì một chính quyền phi dân chủ ngày càng phớt lờ nguyện vọng của người dân.

Cộng đồng quốc tế có thể giúp đỡ người Hồng Kông.

Đầu tiên, chúng tôi thúc giục các bạn gây áp lực để Bắc Kinh rút về quân đội đang đặt dọc biên giới Hồng Kông. Hành động làm bộ này của các lực lượng quân sự Trung Quốc khiến căng thẳng leo thang không đáng có .

Trung Quốc sẽ gặt hái được một cơ lốc những lời lên án nếu họ cho xe tăng vào thành phố chúng tôi. Nó sẽ khiến người ta hoài nghi thiện chí tuân thủ các thỏa thuận song phương của Bắc Kinh. Nó cũng có thể dẫn đến việc Mỹ rút lại quy chế đặc biệt cho Hồng Kông theo luật Mỹ.

Có một số những người trung thành với Bắc Kinh ở trong thành phố này, những người mà vì lòng tôn sùng mù quáng đối với chế độ độc tài Trung Quốc đã ủng hộ việc đưa binh lính vào dập tắt phong trào của chúng tôi. Rõ ràng là họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro giết chết trung tâm tài chính Châu Á này.

Thứ hai, các nhà lãnh đạo quốc tế tại Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cần lên tiếng rõ ràng rằng chính phủ Trung Quốc phải tuân thủ đầy đủ các điều khoản và tinh thần của Tuyên bố chung Trung-Anh năm 1984, văn kiện mở đường cho sự kiện trao trả năm 1997: Hồng Kông rời Anh Quốc. Chúng tôi hoan nghênh các lãnh đạo G7 vì đã ủng hộ nền tự trị của chúng tôi trong một thời kỳ đầy thử thách như thế này và thúc giục họ tiếp tục lên tiếng.

Thứ ba, chúng tôi đề nghị tất cả mọi người ủng hộ những lời kêu gọi chính phủ Hồng Kông tiến hành một cuộc điều tra độc lập đối với việc cảnh sát sử dụng vũ lực thái quá. Chúng tôi cũng kêu gọi chấm dứt bán các thiết bị kiểm soát đám đông cho cảnh sát Hồng Kông, những người mà trong vài tháng gần đây đã cho thấy thiên hướng khát máu và bạo lực trong các hành động cảnh sát của mình.

Cuối cùng, chúng tôi thúc giục các chính trị gia ở Mỹ ủng hộ và thông qua Đạo luật Dân chủ và Nhân quyền Hồng Kông càng sớm càng tốt, để theo dõi chặt chẽ những kẻ vi phạm nguyên tắc “một quốc gia, hai chế độ” và trừng phạt những kẻ tước đoạt khỏi người Hồng Kông những quyền lợi chính đáng của họ.

Lần này tôi không phải là gương mặt của cuộc biểu tình ở Hồng Kông. Phong trào chống luật dẫn độ lớn hơn và có tổ chức hơn nhiều Phong trào Ô dù 2014.

Việc bắt bớ sẽ không ngăn được quyết tâm của chúng tôi. Trước mặt chúng tôi là rất nhiều tháng dài nữa của nước mắt và đau khổ, trong khi bóng đen của cuộc thanh trừng đe dọa không chỉ những ai đổ ra đường phố, mà còn trên khắp các ngành kinh tế, giáo dục, y tế và giao thông của Hồng Kông.

Toàn bộ thành phố này đang đứng trên một mặt trận thống nhất chống lại chính phủ, nhưng mỗi ngày chính quyền của bà Lâm lại tiếp tục thêm dầu vào lửa bằng những lời đe dọa. Nỗ lực của bà trong cái gọi là “đối thoại” không thuyết phục được ai.

Ở trong bất kỳ một nền dân chủ nào, mức độ đối kháng kéo dài trong một thời gian lâu như thế này đã phải đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp chính trị của một lãnh đạo giống như bà Lâm. Nhưng bởi vì chúng tôi không sống trong một chế độ dân chủ, bà ta có thể ngắm nhìn chiến trường từ trong tòa tháp kính của mình, và chế độ của bà ta – dưới sự chỉ đạo của Bắc Kinh – tiếp tục ngấu nghiến những đứa con của Hồng Kông.

Thành phố của chúng tôi đang oằn mình trong một vị thế không mấy dễ chịu: ở mặt trật giữa tự do và độc tài. Nhưng chúng tôi đã bị dồn đến chân tường và nếu bây giờ chúng tôi run sợ, sẽ không còn cơ hội thứ hai để lên tiếng. Đằng sau những hàng rào chắn, chúng tôi khát khao một Hồng Kông thoát khỏi ách độc tài và chính phủ bù nhìn.

Chúng tôi khát khao có một một quê hương nơi tự do dân sự được tôn trọng, nơi con cái của chúng tôi không phải là đối tượng bị giám sát toàn diện, bị tước đoạt nhân quyền, kiểm duyệt chính trị và bắt bớ bừa bãi. Chúng tôi đang đứng lên cùng tất cả những dân tộc tự do trên thế giới và hy vọng các bạn sẽ đứng cùng chúng tôi trong cuộc chiến tìm kiếm công lý và hòa bình này.”

Hoàng Chi Phong
Trọng Đức biên dịch
* Bài viết của Hoàng Chi Phong, đăng trên chí Economist của Anh Quốc.
Nguồn: trithucvn.net

Bàn Về Sự Vô Cám - Đặng Chí Hùng


1. Tại sao người Việt hiện nay Vô cảm?
Tại sao bao nhiêu năm nay người dân Việt Nam cam chịu với số phận bị cai trị bởi độc tài cộng sản? Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến điều đó. Đã có nhiều người nói đến chủ đề này, tuy nhiên sẽ là đủ hơn nếu chúng ta nhìn vấn đề này tổng quát từ lịch sử đến hiện tại.

Nói dân tộc Việt không anh hùng, cam chịu là không đúng. Bởi vì nếu dân tộc Việt nhu nhược thì sau hơn 1000 năm Bắc thuộc đã không còn nước Việt, người Việt và cả tiếng Việt. Chúng ta làm phép so sánh, người Mông Cổ anh dũng đến thế mà cũng bị chính Hán tộc đồng hóa dẫn đến sự mất dấu của đế quốc Mông Cổ hùng mạnh thuở nào. Tuy nhiên, người Việt thì không như vậy. Các dân tộc Việt Nam đã đòan  kết chiến đấu trong suốt chiều dài lịch sử để có sự trường tồn hơn 4000 năm lịch sử cho đến ngày hôm nay. Họ không hề vô cảm trước hoàn cảnh đất nước.

Nhưng sự vô cảm của người Việt Nam chúng ta hiện nay đã đến mức không thể chấp nhận được. Có thể ví dụ đó là thanh niên Việt sợ chính trị, tránh xa các vấn đề của đất nước kể cả đất nước sắp rơi vào tay giặc Tàu. Họ chỉ thích ăn chơi, nhậu nhẹt và chạy theo các cuộc tình chớp nhoáng. Khắp nơi sự ăn chơi dẫn đến tình trạng uống bia cao nhất, nạo phá thai nhiều nhất. Phần lớn Người Việt trong nước bây giờ cũng mặc kệ nỗi đau của đồng bào mình, và cũng chẳng cần biết đến Hoàng Sa-Trường Sa còn hay đã mất bởi họ còn mải khóc cho những ngôi sao phim tỉnh cảm lả lướt đến từ Hàn quốc. Đa số Người Việt ở tại VN bây giờ cũng chạy theo hình thức khi đua nhau học đòi các dân tộc có nền kinh tế phát triển mạnh, kết quả là sự phân hóa giàu nghèo cũng như kinh tế chỉ là cái giàu ảo bên ngoài dựa trên những đồng tiền đi vay nước ngoài, tham nhũng và chia nhau sống trong sự sang trọng ảo tưởng. Rất nhiều Người Việt Nam bây giờ cũng chỉ biết lao đầu vào những bữa nhậu mà quên đi họ đang ăn chất độc do chính tên bạn “16 vàng, 4 tốt” của đảng cộng sản Việt Nam đầu độc. Nhiều Người Việt bây giờ cũng chẳng cần biết dân tộc Việt sẽ đi về đâu, mạnh ai người đó chạy đi xứ khác và sau đó có chút danh vọng, tiền tài thì chỉ biết khoe khoang sự sung sướng cho bản thân mà quên đi rằng họ có trên đời, họ là người Việt, họ phải bảo vệ giá trị của dân tộc Việt, đất nước Việt Nam.
Tất cả những điều đó, có thể gọi chung là căn bệnh Vô cảm. Theo cá nhân người viết có hai nguyên nhân chính. Nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Nguyên nhân khách quan đó chính là người dân chúng ta rơi vào hoàn cảnh hết sức trớ trêu của lịch sử. Vừa hết phong kiến, chúng ta chuyển ngay sang cộng sản độc tài ở Miền Bắc. Miền Nam khá hơn đó là có hơn 20 năm tự do, dân chủ, phát triển dưới sự lãnh đạo của đệ nhất, đệ nhị cộng hòa. Tuy vậy, để có ý thức dân chủ tự do thì cần phải có nhiều thời gian hơn con số hơn 20 năm đó. Nếu không có ngày 30/4/1975 đầy máu và nước mắt thì có lẽ Miền Nam đã rất phát triển không chỉ là kinh tế mà còn là xã hội, chính trị và đời sống, dân trí. Nhưng giống như một định mệnh buồn, dân tộc Việt đã bị nhuộm đỏ bởi cộng sản và đó chính là nguyên nhân chủ quan chính yếu dẫn đến sự vô cảm của người Việt hiện nay.

Cộng sản Việt Nam sau khi chiếm được Miền Bắc đã tiến hành cải cách ruộng đất, đấu tố nhân văn giai phẩm làm hai mục đích. Chúng cướp của cho riêng cán bộ nhưng đồng thời gieo rắc sợ hãi cho người dân để người dân làm quen dần với bóng tối sợ hãi. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự vô cảm của người Việt Nam từ đó.

Sau khi ăn cướp được Miền Nam, cộng sản tiếp tục thực hiện chính sách cướp đoạt thông qua đánh tư bản, đồng thời bỏ tù những người làm việc trong bộ máy VNCH. Cũng là một mũi tên trúng hai đích, vơ vét tiền bạc và làm thui chột sự phản kháng của người dân Miền Nam vốn quen với tự do dân chủ. Mục đích cũng là tạo sự sợ hãi dẫn đến vô cảm cho người dân.

Ngày hôm nay, cộng sản tiến hành chính sách độc quyền mọi mặt từ báo chí, công đoàn, đến luật pháp để tiếp tục ép buộc người dân vào thế phải chịu đựng. Với hệ thống côn an, côn đồ, quân đội dày đặc, cộng sản sẵn sàng đàn áp bất cứ ai nói đến yêu nước, dân chủ, tự do. Điều đó dẫn đến sự sợ hãi bao trùm người Việt Nam nhiều năm qua. Điều này càng làm cho nhiều người dân chán nản dẫn đến vô cảm.

Song song với việc reo rắc sự sợ hãi, Cộng sản Việt Nam còn vẽ ra chính sách giáo dục hướng học sinh tới thụ động, ăn chơi và vô cảm. Những game show rẻ tiền, những bộ phim copy từ xứ Hàn về, những trò cá độ thể thao nhan nhản trên mặt báo chí nhà nước, truyền hình của đảng đã tạo ra một không khí ăn chơi sôi động cho người dân. Vì thế người dân đâu cần quan tâm đến quốc gia, dân tộc. Tâm lý hưởng thụ cho bản thân, gia đình và an phận thủ thường lan tỏa đến khắp mọi người.

Nhưng có một điều rất quan trọng, những người đang vô cảm với vận mệnh của quốc gia, dân tộc cần phải nhớ đó là khi bạn “Mặc kệ” nỗi đau của người khác vì bạn chỉ muốn sống cho riêng mình thì sớm hay muộn bạn cũng sẽ nhận được nỗi đau mà người khác đã phải nếm trải. Niềm hạnh phúc chỉ có trong mỗi chúng ta nếu chúng ta đem được hạnh phúc đến với người khác. Hơn thế nữa, chúng ta có mặt trên đời này là người Việt thì cần phải luôn nhớ mình phải có trách nhiệm với quê hương, tổ tiên của mình. Những gương quan chức, ca sĩ, nằm vùng đã từng một thời “Bưng bô” cho cộng sản bị vắt chanh bỏ vỏ, cướp đất đã chứng minh thực tế phũ phàng đó.

Một lần nữa, người viết mong tất cả đừng vô cảm và hãy dùng chính sự suy nghĩ của mình đến với quê hương, dân tộc để thảm cảnh về một Tây Tạng thứ hai sẽ không tái hiện ở Việt Nam. Nhưng mong muốn là vậy, mong muốn thì phải có giải pháp để đạt được mong muốn đó…

2. Phương pháp chấm dứt sự Vô cảm đối với người Việt:
Như trên, người viết đã nói đến các căn nguyên của bệnh vô cảm của nhiều người Việt hiện nay. Nguyên nhân khách quan đến từ lịch sử người Việt chưa được hưởng tự do, dân chủ nhân bản để cảm thông chia sẻ vì người dân Việt phải bước từ phong kiến lên ngay cộng sản độc tài. Nguyên nhân chủ quan đến sự cai trị độc ác, chủ trương vô cảm hóa để bán nước của đảng CSVN. Vấn đề còn lại là muốn thoát cộng sản, thoát Tàu thì phải chấm dứt căn bệnh vô cảm đó.

Có nhiều người đã muốn nâng cao dân trí bằng cách giáo dục cho người dân tính chất của dân chủ, tự do. Điều này là hoàn toàn đúng. Bởi chỉ có một nền dân trí cao mới giúp người dân thay đổi nhận thức được vấn đề họ có quyền, trách nhiệm với đất nước chứ không còn tâm lý “Mặc kệ, đã có đảng cộng sản và nhà nước lo”. Hiểu vấn đề về dân chủ giúp cho người dân có thêm kiến thức để không bị các quan chức cộng sản bắt nạt. Đặc biệt, hiểu biết về tự do dân chủ sẽ giúp người dân đòi hỏi nó là điều phải có cho cuộc sống của họ.

Nói là như vậy nhưng mà có một điều cần phải nhớ. Vì chúng ta có nguyên nhân chủ quan và khách quan như đã nói nên trong một sớm một chiều mà thay đổi dân trí cho người dân thoát bệnh vô cảm là điều rất khó. Hơn thế nữa dân trí, nhận thức về dân chủ tự do lại là một thứ lý thuyết khá trừu tượng. Trong một thời gian ngắn, người dân sẽ không hiểu được và họ vẫn cho rằng từ trước đến nay họ được tự do ăn, ở, thậm chí là “vứt rác” nơi công cộng vv…đó là tự do. Chính người viết đã từng làm thí nghiệm với việc tham khảo rất nhiều người dân và họ không quan tâm đến vấn đề tự do dân chủ lắm. Mà vấn đề thoát cộng, thoát Trung lại là vấn đề cấp bách không thể chờ đợi quá lâu dài.

Một vấn đề cần xét đến đó là vấn đề Việt Nam không đơn thuần là của Việt Nam mà nó có yếu tố ngoại bang. Ngoại bang ở đây chính là Trung Cộng. Nếu như chúng ta không nhanh tay xóa bỏ chế độ cộng sản thì liệu năm 2020 sẽ thế nào? Chúng ta nếu chỉ có truyền thông về dân chủ, tự do thì sẽ đến đâu trong khi dân tộc VN sắp hoàn toàn rơi vào tay giặc?Có lẽ khó có thay đổi khi như đã nói nhận thức về dân chủ, tự do, nhân quyền vv…ở Việt nam vẫn là một thứ khá xa vời với đại đa số người dân.

Lịch sử cũng đã chứng minh, người dân Việt Nam đã từng đứng lên nhiều lần khi họ bị dồn vào chân tường. Hiện nay, khi mà đủ các thảm họa với dân như Boxit Tây Nguyên, thảm họa đối với ngư dân khi giặc Tàu bắt, mới đây nhất là thảm họa Formosa và những tình hình Biển đảo đang nóng hổi thì có một số không ít người dân đã tỏ rõ sự căm phẫn đối với nhà cầm quyền bán nước – CSVN. Những thảm họa đó được gây ra bởi bàn tay nhuốm máu người Việt của Trung Cộng và Việt Cộng. Số người tham gia biểu tình vừa qua trong vụ Formosa chưa nhiều lắm, nhưng đã nhiều hơn nhiều các cuộc biểu tình trước đây. Không gian không chỉ gói gọn ở Hà Nội và Sài Gòn mà lan rộng gần như cả nước, đặc biệt là sự vùng lên của Miền Trung – Nơi trực tiếp bị ảnh hưởng bởi thảm họa Formosa.
Nguyên nhân nào dẫn đến điều đó? Bởi vì sự kiện Formosa đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sức khỏe, kinh tế của người dân. Và họ đã ý thức được phần nào để đứng lên đòi hỏi phải có sự minh bạch, mong muốn Formosa phải cút khỏi Việt Nam.

Qua ví dụ là cuộc biểu tình ngày 1/5/2016 của sự kiện Formosa đã cho thấy nhận định của người viết thêm một lần nữa khẳng định. Rất nhiều Người dân Việt sẽ thoát được sự vô cảm nếu họ hiểu được họ bị đe dọa về kinh tế, đời sống và sự thật về việc sắp tới phải làm nô lệ cho Tàu cộng. Sự sợ hãi chỉ bị vứt bỏ khi người dân biết họ đang bị đảng CSVN đẩy vào thế đường cùng.
Chúng ta phải kết hợp hai mặt trận đó là tuyên truyền ý thức, tinh thần tự do dân chủ và tuyên truyền về sự thật đảng cộng sản, Hồ Chí Minh một cách hợp lý theo hai giai đoạn. Giai đoạn 1 đó là giai đoạn hiện nay chú trọng đến việc truyền thông họa mất nước sắp đến gần, người dân sắp phải làm nô lệ, những ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân, việc này chiếm 80% tin tức, 20% còn lại là về ý thức tự do, dân chủ của người dân. Đó là một phần trong cuộc cách mạng dân tộc tự do trước khi tiến đến bước hai là cách mạng dân chủ. Giai đoạn 2 nếu lật đổ được CSVN rồi thì sẽ đổi ngược lại tỉ lệ vì lúc đó chúng ta cần phát triển một xã hội dân chủ, tự do, phát triển thật sự.

Nếu không nhanh chóng làm cho người dân hết bệnh vô cảm bằng bài thuốc “Sự thật” và “Thực tế cuộc sống” hiện nay: Người dân thường bị ai bóc lột, đè nén,ai đã và sẽ phải chịu gánh nặng, con cháu chúng ta phải gánh nợ nần thế nào vv… thì tương lai dân tộc sẽ rất đen tối khi mà Trung Cộng nắm được toàn Việt Nam chính thức từ thỏa thuận bán nước của đảng CSVN. Cuộc cách mạng dân tộc xóa bỏ đảng cộng sản là điều cần lúc này, vì thế căn bệnh vô cảm cần được chấm dứt bằng những ý thức được thông tin sát với đời sống cửa người dân.

Một yếu tố quan trọng nữa đó chính là phải tìm cách đưa tội ác CSVN ra công luận, toàn án quốc tế nhằm cắt tất cả những viện trợ FDI,ODA mà CSVN vẫn ngửa tay ăn xin trả tiền côn an, quân đội đàn áp người dân, duy trì chế độ. Chỉ có làm cho CSVN không còn tiền để khiến người dân sống ảo như hiện nay, rơi vào thực tế phũ phàng về kinh tế, lương thực, tiền tệ thì mới khiến căn bệnh vô cảm chấm dứt.
Chỉ có con đường đó, đất nước Việt Nam của chúng ta mới sớm thoát khỏi những đau thương hiện nay. Mong lắm những người đang đấu tranh cho tự do dân chủ làm được điều này vì một Việt Nam tươi sáng hơn trong tương lai.

Đặng Chí Hùng

Saturday, August 24, 2019


"Lá phổi của hành tinh" - rừng Amazon chìm trong biển lửa

11:32 22/08/2019  (Theo CNN)
  - Rừng nhiệt đới Amazon, được ví là "lá phổi của hành tinh" đang hứng chịu vụ hỏa hoạn lớn kỷ lục, nhiều nhà khoa học lo ngại vụ cháy trên sẽ giáng một đòn mạnh vào các phong trào chống biến đổi khí hậu.
Những đám cháy ở Amazon -  khu rừng lớn nhất thế giới đang lan ra nhanh chóng với tốc độ kỷ lục, cao nhất kể từ năm 2013 tới nay, theo số liệu của Viện nghiên cứu không gian quốc gia Brazil (INPE).
ảnh 1
"Lá phổi của hành tinh" Amazon đang chìm trong biển lửa
Cũng theo INPE, chỉ trong năm nay, trên Brazil đã xảy ra tổng cộng 72.843 vụ cháy, với hơn một nửa trong số đó được ghi nhận tại khu vực Amazon. Con số này đã tăng hơn 80% số vụ cháy tại đây so với cùng kỳ năm ngoái.
Rừng nhiệt đới Amazon, được coi là "lá phổi của hành tinh", đóng vai trò vô cùng quan trọng bởi nó tạo ra khoảng 20% lượng khí oxy trong khí quyển Trái đất. Rừng Amazon được cho là một phần vô cùng quan trọng giúp điều hòa khí hậu Trái đất và làm chậm lại quá trình nóng lên toàn cầu. Ngoài ra, khu rừng này còn là nơi sinh sống của vô số những loài động, thực vật quý hiếm. Với diện tích lớn bằng một nửa Hoa Kỳ, Amazon là khu rừng nhiệt đới lớn nhất thế giới.
Với tầm quan trọng như vậy, thông tin khu rừng Amazon bị cháy lớn trong nhiều ngày qua đã khiến không ít người lo ngại việc "lá phổi của hành tinh" đang bị phá hủy.

Amazon - "lá phổi của hành tinh" cháy vì chúng ta ăn quá nhiều thịt!

08:55 24/08/2019 (Theo CNN)
- Hẳn nhiều người tự hỏi, làm sao để có thể cứu được rừng nhiệt đới Amazon, được coi như “lá phổi của hành tinh”, nơi sản xuất ra khoảng 20% lượng ôxy của thế giới. Câu trả lời có thể đơn giản: Hãy ăn ít thịt đi!
ảnh 1
Tưởng chừng như vô lý vì cháy rừng Amazon thì liên quan gì đến việc con người ta ăn nhiều thịt? Nhưng Brazil là nước xuất khẩu thịt bò nhiều nhất thế giới, áp lực xuất khẩu cùng thói quen canh tác đã khiến rừng Amazon phải gánh chịu hậu quả.
Đúng vậy, Brazil là nước xuất khẩu thịt bò lớn nhất thế giới, cung cấp gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu. Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, con số này còn có thể tăng trong những năm tới.
Năm ngoái, nước này đã xuất 1,64 triệu tấn thịt bò, sản lượng cao nhất trong lịch sử. Số liệu thống kê đó xuất phát từ Hiệp hội các nhà xuất khẩu thịt bò Brazil gồm hơn 30 công ty đóng gói thịt Brazil.
ảnh 2
Brazil phá kỷ lục thế giới về xuất khẩu thịt bò năm 2018
Sự tăng trưởng của ngành công nghiệp thịt bò của Brazil được thúc đẩy một phần bởi nhu cầu mạnh mẽ từ châu Á - chủ yếu là Trung Quốc và Hồng Kông. Chỉ riêng hai thị trường này đã chiếm gần 44% tổng lượng thịt bò xuất khẩu của Brazil năm 2018.
Ngành công nghiệp thịt bò của Brazil “lên ngôi” nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên là những đồng cỏ sẵn có và nhu cầu gia tăng trên toàn cầu. Đi kèm với sự tăng trưởng đó là những cái giả phải trả cho môi trường cũng gia tăng.
Trung tâm nghiên cứu vũ trụ của Brazil (INPE) tuần này cho biết, số vụ hỏa hoạn ở Brazil tăng hơn 80% so với năm ngoái. Hơn một nửa số đó trong khu vực Amazon, tạo nên thảm họa cho môi trường và sinh thái địa phương. Các đám cháy liên quan đến hoạt động nông nghiệp quy mô nhỏ, cho đến phá rừng để phục vụ các dự án kinh doanh nông nghiệp cơ giới và hiện đại.
Nông dân Brazil cứ đến mùa khô là bắt đầu đốt và dọn sạch các khu vực để chăn thả gia súc, nhưng việc này trong năm nay được thực hiện ở quy mô chưa từng có. Các nhà vận động môi trường đổ lỗi cho Tổng thống Bolsonaro, người đã khuyến khích các chủ trang trại, nông dân và người khai thác gỗ đốt rừng vô ý thức.
Sản xuất thịt bò chiếm 41% lượng khí thải nhà kính trong chăn nuôi, và chăn nuôi chiếm 14,5% tổng lượng khí thải toàn cầu. Một báo cáo đáng báo động được Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc công bố năm ngoái cũng cho thấy, việc thay đổi chế độ ăn uống của chúng ta có thể đóng góp 20% nỗ lực cần thiết để nhiệt độ Trái đất không tăng lên 2 độ C so với mức trước thời đại công nghiệp. Vì thế, cách thiết thực để bảo vệ rừng và chống biến đổi khí hậu là hãy ăn ít thịt đi.

Thursday, August 22, 2019

Mỹ lên án Trung Quốc...

Mỹ lên án Trung Quốc can thiệp hoạt động dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông

2 giờ trước  (Theo Bloomberg)
Mỹ khẳng định, Trung Quốc đang thực hiện các bước đi khiêu khích để ép các quốc gia Đông Nam Á tạm dừng hợp tác với các công ty dầu khí quốc tế.
ảnh 1
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus 
Trong một tuyên bố, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus ngày 22-8 cho rằng, việc Trung Quốc tái triển khai tàu khảo sát cùng các tàu vũ trang hộ tống vào vùng biển ngoài khơi Việt Nam là “hành động leo thang của Bắc Kinh trong nỗ lực đe dọa các bên khỏi nguồn tài nguyên đang phát triển ở Biển Đông” và ép họ “chỉ làm việc với doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc”.
“Mỹ phản đối mạnh mẽ bất kỳ nỗ lực nào của Trung Quốc nhằm đe dọa hoặc ép buộc các nước đối tác từ chối hợp tác với các công ty không phải của Trung Quốc, hoặc nói cách khác là quấy rối các hoạt động hợp tác của họ”, bà Ortagus nhấn mạnh, “Mỹ cam kết tăng cường an ninh năng lượng cho các đối tác và đồng minh của chúng tôi ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương và đảm bảo sản xuất dầu khí khu vực không bị gián đoạn đối với thị trường toàn cầu”.
Trước đó, Nhà Trắng ngày 20-8 cáo buộc Trung Quốc sử dụng “chiến thuật bắt nạt” ở Biển Đông và khẳng định Washington sát cánh cùng các nước trước hành vi đe dọa an ninh của Trung Quốc.
“Việc Trung Quốc gia tăng các nỗ lực nhằm cản trở các nước khác phát triển nguồn tài nguyên ở Biển Đông trong thời gian gần đây là rất đáng lo ngại”, Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ John Bolton viết trên Twitter. Ông Bolton khẳng định, Mỹ kiên quyết sát cánh với các nước chống lại “hành vi cưỡng chế và chiến thuật bắt nạt, đe dọa hòa bình và an ninh khu vực”.
Tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 22-8-2019, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết: “Như đã thông tin vào ngày 16-8, trong những ngày qua nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 Trung Quốc đã trở lại và tiếp tục hành vi xâm phạm nghiêm trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982”.
Theo bà Hằng, Việt Nam đã nhiều lần giao thiệp với phía Trung Quốc về vấn đề này, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không có những hành vi làm gia tăng căng thẳng, gây phức tạp tình hình đe dọa đến hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông cũng như ở khu vực.
Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục thực thi và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật của Việt Nam.
“Với quyết tâm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đóng góp vào hòa bình, ổn định, an ninh khu vực và quốc tế, Việt Nam luôn sẵn sàng giải quyết các bất đồng bằng mọi biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Một lần nữa chúng tôi đề nghị các quốc gia liên quan và cộng đồng quốc tế đóng góp tích cực thiết thực vào việc duy trì hòa bình an ninh trong khu vực, an ninh, an toàn và tự do hàng hải và hàng không, tôn trọng nguyên tắc thượng tôn pháp luật ở Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982”, bà Lê Thị Thu Hằng nói.

Con Trai Của Một Bác Sĩ Hy Sinh Trận Phước Long 12/12/74 - Nguyễn Đình Phùng

Trích từ câu chuyện: “Người con trai”
của Nguyễn Đình Phùng 
Bác sĩ Nguyễn Vũ Thanh Sơn, chạy vội lên cầu thang, nhảy từng ba bậc một để lên lầu 4. Không dùng thang máy vì phải đợi quá lâu, bác sĩ Sơn vừa chạy vừa nói vào điện thoại cầm tay, ra lệnh cho y tá chích thuốc giải cơn động kinh ngay cho người bệnh nhân nằm trong phòng 412. Chàng mở cửa phòng bước vào, cô y tá người Phi Luật Tân, nhỏ nhắn dễ thương như phần lớn những y tá gốc người Phi làm việc tại bệnh viện của đại học y khoa Irvine này, cười trấn an chàng:

- Êm rồi! Lúc nãy ông ta làm dữ quá!

Chàng gật đầu tiến đến gần giường người bệnh, lấy hồ sơ đọc. Ông Lê Hoàng Sử, 62 tuổi, ung thư chính gốc tại gan, đã chạy lan sang phổi và não bộ, bắt đầu lên những cơn động kinh thưòng xuyên và nhập viện được 3 ngày nay. Chàng thuộc nhóm bác sĩ chuyên môn về ung thư của đại học UCI,hôm nay là ngày trực của chàng, phải trông coi hơn chục người bệnh của khu ung thư nằm tại lầu 4 này. Sơn nhìn người bệnh. Mắt ông ta nhắm lại, tay chân duỗi ra, đang ở trạng thái của người bị kinh giật vừa chấm dứt. Người bệnh trông đầy quen thuộc, như thể chàng đã gặp nhiều lần nhưng không nhớ đích xác. Sơn cố ngẫm nghĩ. Tại sao ông ta trông quen quá vậy? Chàng gặp ở đâu? Lúc nào? Sơn lắc đầu. Không thể nhớ được. Chàng hỏi người y tá về những kết quả thử nghiệm máu mới nhất. Cô y tá ra khỏi phòng để dùng máy in ra kết quả gửi lên từ phòng thí nghiệm. Trước khi ra cô ta quay đầu lại hỏi:
- Bác sĩ cần gì khác nữa không?

Sơn lắc đầu. Chàng nhìn lại người bệnh. Bỗng dưng ông ta mở mắt ra, nhìn dáo dác một lúc rồi dán mắt vào Sơn. Tiếng rú từ người bệnh làm chàng giật nảy người, cô y tá vừa bước ra ngoài chạy vội trở lại đến giường bệnh. Ông Sử nhỏm phắt người lên, hai tay chắp lại, vái chàng lia lịa như tế sao:
- Ông Thày! Ông Thày! Em, Sử đây ông thày ơi! Ông Thày đừng bắt em tội nghiệp!
Cô y tá tiến lại, định đè ngưòi bệnh xuống và chích thêm một liều thuốc giải động kinh nữa. Nhưng Sơn ngăn lại. Chàng biết người bệnh lên cơn mê sảng, ảo giác tưởng chàng là ai khác. Chàng nắm lấy tay người bệnh, nói tiếng Việt:
- Không sao đâu bác! Tôi là bác sĩ Sơn. Bác thấy trong người ra sao?
Ông Sử tiếp tục lắp bắp:
- Ông Thày ơi! Em không dám trái lời ông thày đâu. Em vẫn theo dõi con ông thày mà!

Sơn nhìn lại người bệnh. Câu nói của ông Sử như khêu gợi trí nhớ Sơn, làm chàng đột nhiên nhận ra người đàn ông trước mặt. Chàng đã gặp người này nhiều lần, từ gần hai mươi năm nay. Ông ta đã có mặt trong tất cả những ngày trọng đại của chàng. Ngày chàng học xong trung học, trong buổi ra trường, Sơn là thủ khoa valedictorian, chàng đứng trên bục để đọc diễn văn, người đàn ông này đã ngồi ngay hàng ghế đầu, nhìn chàng chăm chăm. Sơn thấy lạ, nhưng đoán ông ta là phụ huynh của bạn học cùng lớp. Ngày chàng học xong đại học, sau 4 năm tiền y khoa, khi mặc mũ áo chụp hình với gia đình, chàng thấy ông ta lẩn quẩn đứng bên, nhìn chàng chăm chú. Nhưng cũng chỉ nghĩ là người nhà của các bạn khác đang chụp hình bên cạnh. Ngày chàng được nhận vào đại học y khoa University of California ở Irvine này, gia đình Sơn ăn mừng ở tiệm ăn, chàng cũng thấy ông ta ngồi bàn bên cạnh. Buổi lễ mặc áo trắng của năm thứ nhất, white coat ceremony, chàng cũng thấy người này ngồi hàng ghế đầu. 

Ngày Sơn ra trường với mảnh bằng bác sĩ, cũng có mặt ông ta. Bây giờ Sơn đã quả quyết. Người bệnh nhân đang lên cơn mê sảng trước mặt chàng, đã theo dõi chàng từ gần hai mươi năm nay. Nhưng tại sao? Và chàng còn nhớ lại nhiều điều khác. Sơn được nhiều học bổng của các tổ chức người Việt ở Quận Cam này, phòng thương mại, hội bảo vệ văn hóa, hội các thương gia... Chàng thấy tên Lê Hoàng Sử khá quen, hình như ông ta đã là chủ tịch của nhiều hội của người Việt tại Quận Cam này nhiều năm qua. Có thể nào những học bổng dành cho chàng đó là do chính ông Lê Hoàng Sử này? Rồi nhiều lần chàng đã ngạc nhiên khi thấy tiền học phí đã được ai trả hết, có hỏi văn phòng tài chánh của trường cũng không biết, chỉ thấy là account của chàng về học phí đã được chuyển tiền bằng điện tử để thanh toán, không biết ai là người gửi.
Người bệnh chợt im lặng, nằm xuống lại. Một lúc sau, ông ta mở mắt ra. Lần này cặp mắt đã tinh anh, nhận biết khung cảnh chung quanh, như một người đã tỉnh táo sau cơn mê sảng. Ông ta nhìn thấy Sơn và cất tiếng:

- Chào bác sĩ Sơn! Tôi mừng thấy ông làm việc ngày hôm nay. Tôi có nhiều điều cần nói với bác sĩ. Ông Sử đã lấy lại phong thái của một người giàu có, được mọi người kính nể. Sơn bây giờ nhớ lại đã nghe nhiều người nói. Ông Lê Hoàng Sử là một trong những người Việt thành công và giàu nhất tại Quận Cam này, chủ nhân ông của một khu shopping lớn trên đường Bolsa, cũng như có nhiều khu apartments cho thuê ở Garden Grove. Ông Sử thở dài:

- Tôi biết tôi không còn sống được bao lâu nữa. Bác sĩ biết rõ hơn tôi. Tôi đã yêu cầu để đổi ngày trực của bác sĩ sang hôm nay. Vì tôi không biết có còn đến được ngày mai nữa hay không!

Sơn nhìn lại hồ sơ bệnh lý. Hình CAT scan cho thấy ông Sử đã có ung thư chạy đầy trong phổi, trong xương. Trên não bộ đã có 4 chấm lớn trong thùy thái dương, không lạ gì ông ta bị động kinh và mê sảng nhiều. Nhưng bây giờ chàng thấy ông Sử tỉnh táo và sáng suốt như một người bình thường, không chút bệnh tật. Ông Sử tiếp tục:
- Bác sĩ ngồi xuống đi! Điều tôi cần nói với bác sĩ tôi phải kể hết và sẽ gây ra nhiều bất ngờ. Tôi muốn bác sĩ bình tĩnh!
Sơn mỉm cười. Chàng có nhiều người bệnh lạ thường, nhưng không ai như ông này. Vừa dứt cơn động kinh, mê sảng, lại khuyên chàng phải bình tĩnh. Sơn kéo ghế ngồi. Ông Sử bắt đầu:
- Cha của bác sĩ là bác sĩ Phan Kim Trấn, tử trận tại bệnh viện tiểu khu Phước Long ở Việt Nam ngày 6 tháng 1 năm 1975. Tôi là y tá của bác sỉ Trấn. 
Sơn lặng người. Chàng không tin ở tai mình. Ông Sử nói bằng một giọng trịnh trọng, thành khẩn. Như một người tin mình đang ở trong giây phút thiêng liêng nhất, để trút lộ một bí ẩn đã đeo đuổi hàng mấy chục năm qua, đã chờ đợi hơn nửa đời người để được giải thoát khỏi một gánh nặng, canh cánh bên mình. Ông Sử im lặng. Sơn cũng không nói. Nhưng trong đầu óc chàng hàng trăm ngàn ý nghĩ khác nhau vùn vụt hiện đến. Những thắc mắc, nghi ngờ từ khi còn thơ ấu, những câu hỏi phải dấu kín không dám hở môi để hỏi ai. Tại sao chàng cao lớn như vậy, trong khi mấy em đều thấp nhỏ. Khuôn mặt chàng cũng khác hẳn hai người em trai. Dáng điệu cũng như tính tình của chàng cách biệt quá nhiều với những người em khác. Không ai nói ra nhưng Sơn biết. Chàng xin ra ngoài ở riêng rất sớm và gia đình chàng vẫn vui vẻ, hòa thuận. Nhưng những câu hỏi vẫn nằm đó, chưa bao giờ được trả lời. Cho đến ngày hôm nay. Ông Sử nhìn chàng, như để thăm dò phản ứng. Rồi ông nói tiếp:
- Tôi xin phép để gọi bác sĩ là cháu. Vì lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là em của bác sĩ Trấn, đã từ hơn 35 năm nay! Bác sĩ Phan Kim Trấn ra trường về làm việc tại bệnh viện tiểu khu của tỉnh Phước Long đầu năm 1974, lúc đó chú đã là y tá làm việc tại bệnh viện này được hơn một năm. Chú được bác sĩ Trấn nhận làm y tá thân cận. Tiếng Việt hồi đó hay gọi là đệ tử, hay còn gọi là "tà lọt", những chữ này chắc cháu không nghe đến, tuy chú biết cháu giỏi tiếng Việt. Cháu chỉ cần biết là bác sĩ Trấn rất thương chú, cũng như chú kính trọng và sẵn sàng xả thân để làm mọi chuyện cho bác sĩ Trấn, không quản ngại bất cứ điều gì. Chú không biết cháu có tìm hiểu nhiều về Việt Nam hay không, tuy chú vẫn theo dõi cháu và biết hết những sở thích cũng như những học hỏicủa cháu. Nhưng cuộc chiến ở Việt Nam đầu năm 1975 khốc liệt vô cùng và tỉnh Phước Long, nơi ba cháu và chú làm việc đã chịu tai họa nặng nề nhất trong các trận đánh của miền Nam lúc đó. Ngày cháu sinh ra đời, mẹ cháu đánh điện tín lên báo tin sinh cháu, ba cháu mừng vô cùng. Nhưng ba cháu không thể về thăm được. Vì tỉnh Phước Long lúc đó đã bị bao vây bốn phía, con đường duy nhất để về là bằng máy bay, ngoài ra là kẹt hết. Hôm đó cũng là ngày người bạn thân của ba cháu, là phi công chở đồ tiếp tế cho tiểu khu bay chuyến bay chót đến Phước Long. Người bạn ba cháu khuyên ba cháu về cùng với ông ta nhưng ba cháu không chịu. Ba cháu bắt chú đi cùng với người bạn và ba cháu ra phố để làm chuyện này.
Ông Sử im lặng một lúc. Rồi tháo vòng dây đeo cổ bằng vàng, có xỏ một miếng ngọc xanh biếc hình chiếc lá, chạm trổ cực kỳ tinh vi. Ông Sử ngắm nghía một lúc và thở dài:
- Ba cháu lúc nào cũng đeo hai miếng ngọc bích này, nói là bùa hộ mệnh. Hai miếng ngọc này giống hệt nhau, ba cháu bắt chú đi theo ra tiệm kim hoàn và mua một dây đeo cổ khác để làm thành hai vòng dây đeo, mỗi vòng dây xỏ một miếng ngọc bích này. Ba cháu giữ một vòng, còn vòng kia đưa cho chú. Ba cháu nói:
- Sử! Mày về đưa chiếc vòng này cho vợ tao, để khi nào con tao lớn cho nó đeo. Tao đã nói chỉ huy trưởng ký giấy phép cho mày về Sài Gòn, giấy phép đây. Mày đi theo anh Kha bay về Sài Gòn để lo cho vợ con tao. Chú khóc như mưa. Vì chú biết rằng ở lại Phước Long là chết. Ba cháu vì nghĩa vụ, không chịu về. Nhưng đã lấy giấy phép cho chú để về cùng với đại úy Kha, bay chuyến chót về Sài Gòn. Để lo cho mẹ cháu và cháu. Vì ba cháu đã linh cảm biết mình không qua được trận đánh này!

Ông Sử ngậm ngùi, mắt nhắm lại. Như hồi tưởng lại những hình ảnh cũ, đã hơn 35 năm, nhưng lúc nào cũng hiển hiện như ngày hôm qua. Ông nhìn Sơn, ngập ngừng:
- Chắc cháu đang tự hỏi tại sao đến bây giờ chú mới nói chuyện này. Và sao chú giữ vòng dây đeo cổ này từ đó đến nay?
Ông cúi đầu xuống, như kẻ ăn trộm bị bắt quả tang. Nhục nhã, tự khinh mình.
- Chú đeo miếng ngọc bích này vào cổ. Và chú không muốn rời nó ra nữa! Ngay đêm hôm sau khi chú về tới Sài Gòn, Phước Long thất thủ và chú nghe tin ba cháu chết trong đêm đó. Chú nhiều lần đến nhà cháu để giữ lời với ba cháu, nhưng nửa đường chú đều quay về. Vì chú tự nhiên có ý nghĩ, miếng ngọc bích này đã cứu mạng chú, nó mang lại cho chú sự may mắn quá lớn. Rời nó ra là chú sẽ chết. Và chú đã phản bội lời hứa với cha cháu. Chú đã giữ miếng ngọc này, đến ngày hôm nay. Chú là kẻ cắp, chú là một kẻ khốn nạn! Nhưng miếng ngọc này đã cho chú những may mắn lạ thường. Từ khi sang Hoa Kỳ đến nay, tuy chú ít học nhưng làm cái gì cũng thành công. Chú tạo được tài sản rất lớn ở đây, tất cả là nhờ chú đeo miếng ngọc ba cháu đưa cho chú, để trao lại cho cháu!Chú lúc nào cũng bị cắn rứt về sự phản bội ba cháu. Và chú đã kiếm ra tông tích gia đình cháu từ hơn hai mươi năm nay, để theo dõi cháu, đỡ đần cho cháu. Cháu bây giờ đã thành công, làm bác sĩ như ba cháu, chú cũng đỡ ân hận phần nào. Nhưng bây giờ chú không còn sống được bao lâu nữa, vật xưa phải hoàn lại cố chủ, miếng ngọc này là của cháu, chú xin trả lại cho cháu.
Ông Sử trao chiếc vòng dây đeo cổ xỏ miếng ngọc bích hình chiếc lá cho Sơn. Và ông rút trong túi áo ra một miếng giấy nhỏ. Ông nói:
- Chú không biết đây là điềm gì! Nhưng tuần trước, lúc chú còn đi lại được, chú ra ngoài Phước Lộc Thọ và tình cờ chú gặp lại đại úy Kha. Ông nói muốn tìm tin tức cháu. Chú không nói gì nhưng có ghi số điện thoại của ông để liên lạc sau. Cháu gọi cho ông ta!
Ông Sử như đã quá mệt, thở dốc một hồi rồi nhắm mắt lại. Sơn nhìn ông ta, cảm xúc tràn đầy trong lòng. Chàng không biết nói gì, hỏi gì hơn. Tất cả đến quá đột ngột, chàng cần thời gian để lãnh hội và tìm hiểu. Sơn đeo chiếc vòng dây vào cổ. Miếng ngọc bích mát rượi trên ngực chàng, bỗng dưng đem lại cho chàng một cảm giác lạ lùng chưa bao giờ thấy. Như một sự an bình, như một sự trở về. Nhưng đồng thời vẫn có một thôi thúc nào đó, đòi hỏi sự tìm kiếm. Như nửa phần vẫn thao thức để tìm nửa phần còn lại. Sơn không hiểu nữa. Và chàng cố gạt mọi ý nghĩ để trở lại với công việc, với những người bệnh nhân đang chờ chàng để được săn sóc, để được hồi phục. Chàng phải quên chuyện riêng bây giờ để thi hành nghĩa vụ của chàng trước đã. Như bác sĩ Phan Kim Trấn 35 năm về trước. Sơn vẫn chưa thể nghĩ đến hình ảnh của người bác sĩ này như cha mình được. Chàng cần thêm thời gian.
* **
Sơn bước vào khu Phước Lộc Thọ. Chàng thấy ngay ông Kha ngồi uống bia một mình bên chiếc bàn nhỏ. Qua điện thoại, ông ta đã dặn chàng:
- Tôi sẽ đội một chiếc mũ nâu, quấn khăn cổ màu nâu, ngồi ở quán ăn nhỏ đầu tiên cạnh đường đi, đối diện với tiệm sách. Đúng một tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ đợi cháu ở đó nhé!
Ông Kha đã sửng sốt bên kia đầu dây khi Sơn gọi, nói chàng muốn biết thêm về bác sĩ Phan Kim Trấn. Chàng không nói gì nhiều hơn. Nhưng chừng như ông Kha đã linh cảm được, và muốn gặp chàng ngay tại khu Phước Lộc Thọ này. Ông Kha đứng lên khi thấy Sơn bước vào. Phản ứng của ông y hệt như ông Sử, khi gọi chàng là ông Thày trong cơn mê sảng. Ông Kha sững sờ, ôm chầm lấy chàng, nghẹn ngào:
- Trấn! Đúng là mày đây rồi Trấn ơi!
Vòng tay ông ôm siết làm Sơn gần ngộp thở. Chàng khẽ nới tay ông ra và giơ tay ra bắt tay ông Kha:
- Cháu là Nguyễn Vũ Thanh Sơn. Bác Kha phải không ạ!
Ông Kha như đã tỉnh trí. Ông ngắm nghía Sơn một lúc rồi nói:
- Cháu giống bố cháu như hệt! Không khác một điểm nào cả! Bác không cần phải hỏi gì nữa, ai nhìn thấy cháu cũng biết cháu là con của bác sĩ Phan Kim Trấn rồi!
Ông kéo ghế cho Sơn ngồi:
- Cháu ngồi xuống đây đi. Đúng là lòng trời run rủi! Bác về đây ở vùng này đã ba năm, lúc nào cũng tìm tin tức gia đình cháu. Ai ngờ đâu cháu ở ngay đây. Lại là bác sĩ nữa. Như bố cháu ngày xưa. Ông Trời có mắt thật!

Ông gọi món ăn. Bảo chàng còn bao nhiêu chuyện để nói, phải ăn chút ít để nghe ông kể!
- Bác là bạn thân của ba cháu từ khi còn nhỏ, ở cùng chung xóm. Gia đình ba cháu ngày xưa nghèo lắm. Ông nội cháu từ Bắc di cư vào Nam, làm ăn rất khó khăn, rất chật vật. Bà nội cháu mất sớm, chỉ còn mình ông nội cháu nuôi ba cháu ăn học. Cháu không thể tưởng tượng công lao cực khổ của ông nội cháu lúc đó. Ông cháu đạp xích lô ban ngày, đến chiều về lại còn phải đạp xe ba bánh để đem bán những gạch vụn cho những ai xây cất nhà cửa, tiếng Việt gọi là xà bần, chữ này chắc cháu chưa nghe bao giờ, nhưng không sao. Cháu nói và hiểu tiếng Việt như thế này đã là giỏi lắm rồi.Ba cháu học rất giỏi, nhà nghèo và cực khổ như vậy nhưng vẫn cố gắng để thi đậu vào trường Y Khoa ở Sài Gòn. Bác cùng học lúc nhỏ chung với ba cháu, không hiểu ba cháu lấy thời giờ ở đâu để học. Vì ba cháu sau khi tan trường về vẫn phụ với ông nội cháu để đạp xe ba bánh, thu nhặt từng miếng gạch vụn để đem bán. Nhà cháu có cái ao rau muống nhỏ, cuối tuần ông nội và ba cháu phải cắt rau, bó từng bó rồi mang ra chợ bán để kiếm tiền. Nhà nghèo như vậy, cực khổ đủ đường như vậy, mà ba cháu vẫn cố gắng để học thành tài, để ra bác sĩ là chuyện phi thường. Bác không thể tưởng tượng nổi là ý chí con người mạnh đến chừng đó. Ông nội cháu hãnh diện biết bao khi con mình ra được bác sĩ, đó là niềm an ủi duy nhất của ông nội cháu. Vì lúc dó ông nội cháu sức khỏe đã suy kém lắm rồi. Bao nhiêu năm lao lực, làm sao còn giữ được mạnh khỏe như trước nữa. Vì thế mà khi ba cháu chết...
Ông Kha không nói nữa. Những cảm xúc làm ông nghẹn lời. Một lúc sau ông mới nói tiếp:
- Bác lại nhảy đoạn rồi. Cháu nói đã nghe anh Sử kể về ngày cuối ở Phước Long rồi phải không? Để bác nói thêm vài chi tiết nữa. Khi ba cháu, bác và y tá Sử của ba cháu ra phố, đúng như anh Sử đã kể cho cháu, bác khuyên ba cháu bỏ nhiệm sở để về Sài Gòn. Vì bác là phi công bay tiếp tế chuyến chót lên tỉnh, bác có vào họp các sĩ quan lúc đó, mới biết rõ là tình hình nguy ngập đến cực độ. Việt Cộng đã bao vây toàn thể tỉnh lỵ, cả hai sư đoàn sửa soạn để tấn công trong nay mai. Trong khi đó bên phía mình, thiếu đạn, thiếu xăng. Phi cơ có sẵn nhưng không đủ xăng để bay oanh tạc. Đạn trọng pháo đã hết sạch, không thể bắn lại được. Binh lính bỏ đơn vị vì súng đạn không đủ để bắn. Bác biết rõ nên nói với ba cháu. Đây là cơ hội chót để thoát thân. Nhưng ba cháu trả lời là cả bệnh viện bây giờ chỉ còn hai bác sĩ, làm việc không xuể. Ngoài thương binh về mỗi lúc mỗi nhiều, còn mấy sản phụ đẻ khó các cô mụ đỡ không nổi, cần có ba cháu đỡ đẻ bằng forceps, sắp sinh trong đêm nay. Nếu ba cháu bỏ về sẽ có nhiều người chết vì không được săn sóc. Nghe bác nói ông nội cháu bây giờ bệnh hoạn lắm, ba cháu gửi bác trụ sinh và mấy chai nước biển để đem về cho ông cụ. Cháu thấy ba cháu khổ sở không? Biết cháu sinh ra đời mà không về được. Biết cha mình ốm đau, mà không thể về để săn sóc. Vì nghĩa vụ phải ở lại, vì nghĩ đến các thương binh, các bệnh nhân không được chữa trị. Ba cháu ở lại dù biết là đầy hiểm nguy, cái chết đến như không. Cũng như một người bạn bác sĩ khác đồng khóa của ba cháu, đang ở Sài Gòn nhưng hạn đi phép hết đã trở lại Phước Long trong ngày hôm đó để làm việc lại, dù biết là đi vào chốn của tử thần. Ba cháu chết trong đêm Việt Cộng pháo kích tấn công, nhưng không ai biết được mồ chôn của ba cháu nơi đâu. Bác nghe nói lại là sau đó, Việt Cộng cho chôn tập thể, khó tìm ra dấu tích. Ông nội cháu nghe tin Phước Long mất và con mình chết, đã gần như điên cuồng. Ông nội cháu nhất định không tin là ba cháu đã mất, nói là chưa có xác, vẫn còn hy vọng sống. Bác thương ông nội cháu và ba cháu lắm vì ở cùng xóm bao nhiêu năm, nhưng bác cũng không biết làm gì hơn. Tôi nghiệp ông nội cháu. Cả đời hy sinh lo cho con ăn học, nghèo khổ đến như vậy, nuôi con ra được bác sĩ, rồi chỉ mấy tháng sau, con đã tử trận vì cuộc chiến. Ông nội cháu không đầy một năm cũng qua đời vì quá đau khổ trước cái chết của ba cháu. Ngày hôm nay bác gặp được cháu là một điềm kỳ lạ. Hôm trước khi thấy anh y tá Sử của ba cháu, bác nhận ra được vì anh ta đeo chiếc vòng dây đeo cổ với miếng ngọc bích này. Cháu bây giờ đeo nó là anh ta đã ăn năn trao lại cho cháu. Bác nghĩ mọi sự đều có cơ duyên cả. Việc anh Sử sắp chết trao lại miếng ngọc này cho cháu, việc bác đang đi tìm cháu, rồi gặp được anh Sử và sau cùng gặp được cháu. Vì chỉ cách đây hơn một tuần, bác được tin lớp học y khoa chung với ba cháu đang tìm cách để tìm ra hài cốt của ba cháu ở Phước Long và xây mộ phần cho ba cháu để tưởng niệm và vinh danh người bạn đồng môn duy nhất đã tử trận trong cuộc chiến ở Việt Nam. Phải có sự xui khiến gì để lớp học y khoa ra trường năm 1973 với ba cháu có ý định tìm hài cốt của ba cháu và xây mộ phần. Phải có sự trùng hợp nào kỳ diệu để một người bác sĩ trong nhóm đó quen với bác và hỏi thăm về tin tức gia đình của cháu và sau cùng bác tìm được cháu.
* ** 
Sơn tiến về phía căn nhà lợp mái tôn. Chàng được cho biết nơi đây đang chứa những bộ xương khai quật từ tuần trước, trong đó có thể có bộ xương của ba chàng. Sơn đã bay về Việt Nam sau khi gặp ông Kha và về đến Sài Gòn ngày hôm trước. Chàng liên lạc với nhóm bác sĩ đồng môn với ba chàng và được cho biết mồ chôn tập thể tại Phước Long sau trận đánh 35 năm về trước đã được tìm ra. Nhóm bác sĩ ra trường năm 1973 đã tổ chức và cử người về cùng với mấy bác sĩ đồng môn còn ở lại Việt Nam, ra tận Phước Long để tìm manh mối về mồ chôn. Một người lính cũ trước kia đào mồ chôn tập thể cho những người chết tại bệnh viện tiểu khu đã dẫn họ đến địa điểm này. Sau khi được giấy phép khai quật, 12 bộ xương đã được đưa đến căn nhà lợp mái tôn này để được khảo nghiệm và xác định, chờ đợi thân nhân đến nhận. Nếu không có thân nhân, những bộ xương còn lại sẽ được chôn cất riêng rẽ và làm mộ bia cho từng người, duới danh nghĩa chiến sĩ vô danh. Các phí tổn đều do nhóm bác sĩ ra trường năm 1973 đảm nhận. Sơn mở cửa bước vào. Các bác sĩ đồng môn với ba chàng đang đứng nhìn từng bộ xương một. Làm sao biết được bộ nào là bác sĩ Phan Kim Trấn của 35 năm về trước? Một bác sĩ vui mừng nói với chàng:

- Cháu Sơn đến rồi! Chúng ta có thể thử DNA cho từng bộ xương. Bộ nào có DNA phù hợp với cháu Sơn là của Trấn thôi. Nhưng có điều phải thử cả 12 bộ. Sơn bắt tay từng người bác sĩ và cảm ơn họ. Những người bạn đồng môn của ba chàng đã khổ công để tìm cho ra hài cốt của ba chàng, tìm được tung tích của chàng, để xác định chắc chắn đâu là bộ xương của ngườ bạn đồng môn thân thiết đã mấy chục năm về trước. Để cho trọn tình trọn nghĩa của những người bạn cùng học chung dưới mái trường năm xựa. Sơn đi qua từng chiếc bàn, mỗi bàn chứa một bộ xương. Chàng dừng lại tại mỗi bàn. Nhưng sự gì đã thôi thúc để chàng sau cùng tiến đến bàn cuối cùng, chứa bộ xương của một người lúc sinh tiền phải là cao lớn. Chàng cúi xuống nhìn rất lâu. Và những cảm xúc chợt ùa đến. Chàng nghĩ đến người cha không bao giờ biết mặt, người cha đã không được nhìn thấy con mình, dù chỉ một lần. Chàng nghĩ đến người ông chàng không bao giờ biết đến, điên cuồng vì cái chết của con.
Chàng nghĩ đến hai thế hệ trước chàng, đau khổ và thê thảm suốt cả cuộc đời. Đã hy sinh tất cả. Và không được lại điều gì. Chỉ bây giờ 35 năm sau mới thấy được thế hệ thứ ba là chàng, đang đứng trước mặt đây. Có phải bộ xương này là của ba chàng? Và Sơn đứng đó, những giọt lệ lan trên má, lúc đầu chậm nhưng càng lúc càng chảy đầm đìa, tuôn tràn, như không thể ngưng lại được. Những giọt nước mắt nóng rơi xuống từng giọt, từng giọt trên bộ xương. Những giọt nước mắt đó, như được hướng dẫn, rơi vào một điểm gồ lên trên xương chẩm của lồng ngực. Và bùn đất tích tụ bao nhiêu năm trên điểm gồ này tan dần để lộ ra một màu xanh kỳ lạ. Ánh nắng lọt từ khe mái tôn chiếu thẳng vào điểm gồ làm màu xanh càng lúc càng bừng lên. Bùn đất bây giờ đã tan hết để lộ rõ ràng miếng ngọc bích màu xanh, nằm ngay trên xương lồng ngực.

Sơn vội vàng kéo vòng dây đeo cổ của chàng ra ngoài áo. Ánh nắng chiếu vào miếng ngọc bích trên bộ xương như nhảy múa và phản chiếu lại vào miếng ngọc trên ngực chàng. Sơn đứng sững người. Màu xanh của hai viên ngọc như quyện lấy chàng, như ve vuốt chàng, mềm dịu, âu yếm, chập chờn trên gò má chàng, trên sống mũi, trên miệng, trên môi chàng. Như muốn nhận biết đây là người con trai yêu quý, người con chưa bao giờ biết mặt, sau hơn 35 năm đã đến đây, để nhận biết người cha của mình, để biết đâu đã là nguồn sống của mình. Và sau cùng đã đến để giải thoát cho oan hồn của người cha, từ bao lâu nay chỉ chờ đợi giây phút này. Khi những giọt lệ của người con trai dấu yêu đã xóa bỏ những hờn oán, những phẫn nộ không nguôi, những uất ức triền miên và những thành trì trói buộc, để được siêu thăng về nơi chốn của vô cùng và của mãi mãi.

Nguyễn Đình Phùng
https://www.nhatbaovanhoa.com