Friday, August 31, 2018

CHUẨN BỊ XÂY TRUNG TÂM CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI SAN JOSE-2017




SAIGON today 31-8-2018


Cửa ngõ sân bay Tân Sơn Nhất kẹt cứng trước kỳ nghỉ lễ 2/9


Chiều 31/8, ngày làm việc cuối cùng trước dịp nghỉ lễ, nhiều tuyến đường ở SAIGON kẹt cứng.


Câu đố vui


Câu đố :
Mẹ và vợ ngã xuống sông cùng một lúc, nếu cứu mẹ thì vợ sẽ chết hoặc cứu vợ thì mẹ sẽ chết. Vậy nên cứu mẹ hay cứu vợ hoặc là không cứu cả hai?
Những câu trả lời :
1 - Mạnh Tử :
Bố chết từ khi còn nhỏ, mẹ nuôi nấng, dạy dỗ ta rất khó nhọc. Mẹ phải ba lần dọn nhà để tránh những ảnh hưởng xấu, dành món ngon cho ta ăn, mua áo đẹp cho ta mặc, tất cả là để cho ta có thể ngẩng cao đầu nhìn thiên hạ. Mẹ và vợ cùng ngã xuống sông, tất nhiên ta phải cứu mẹ rồi. Lấy chữ hiếu làm đầu, vợ  chết thì lấy vợ khác, mẹ chết làm gì có mẹ nữa !
Trên thế gian này chỉ có Mẹ là tốt nhất. Không có mẹ, con trẻ như cỏ cây, biết bấu víu vào đâu? Mẹ! Con sẽ cứu mẹ! Mạnh tử nhảy ùm xuống sông.
2 – Chu U Vương : 
Vợ và mẹ cùng ngã xuống sông, tất nhiên là phải cứu vợ trước. Nghĩ lại ngày trước ta đùa giỡn với nàng, nhìn nàng cười, đến cả giang sơn lẫn sinh mạng nhỏ bé của ta cũng chẳng nghĩa lý gì, huống hồ là mẹ! Khi lập Thái tử, bà ấy còn định bỏ ta làm ta suýt mất cả ngôi báu.
 
"Tình cảm đằm thắm, ta yêu nàng rất nhiều, ta sẽ cứu nàng !" Chu U vương cũng nhảy ùm xuống sông..
3 – Lưu Bị :
Anh em như chân tay, vợ con như áo mặc; áo rách có thể vá, chân tay gãy không thể lành. Chỉ cần Nhị đệ và Tam đệ của ta không ngã xuống sông là được, những kẻ khác ta không thèm để ý.

"Mẹ ơi! Nàng ơi! Các người chết thật thê thảm!" Lưu Bị đứng trên bờ sông khóc lớn.
4 – Tào Tháo :
Thà rằng ta phụ người chứ không để người phụ ta, mẹ ta hay vợ ta cũng thế thôi, chỉ cần ta không ngã xuống sông là được rồi.

"Ta nhẹ nhàng đi cũng như khi ta nhẹ nhàng đến, ta vẫy tay chào không một chút vấn vương." Tào Tháo vừa ngâm thơ vừa chầm chậm bước đi.
5 - Khuất Nguyên :
Thế gian này u ám quá, triều đại này thật hủ bại! Sống cũng chẳng còn có ý nghĩa gì, chi bằng chết cho trong sạch. Song anh có thể rửa mặt và rửa chân cho ta.

Khoảng trời hiện tại là khoảng trời u ám, chẳng còn có thể nhìn tinh tú trên trời. Mẹ ơi! Nàng ơi! Ta cùng nhau chết ở nơi đây!" Khuất Nguyên vừa hát vừa từ từ nhảy xuống sông.
6 – Trang Tử :
Sinh về đâu và chết sẽ về đâu? Mẹ và vợ ta chết cứ chết, chẳng qua chỉ là từ trạng thái hữu hình trở về trạng thái vô hình, có gì phải đau đớn, c ó gì phải xót thương? Chẳng cần phải cứu ai cả! Trang tử ngồi xuống, tay nắm một mảnh sành vừa gõ nhịp vừa hát, mắt nhìn mẹ và vợ chìm đần xuống sông, nét mặt mãn nguyện.
7 – Hoà Thân :
Ai ngã xuống sông thì cứ ngã, cái ta yêu là tiền bạc. Tiền bạc là mẹ ta, là vợ ta. Sao trước khi ngã, các người không mặc ít quần áo thôi, điều đáng tiếc nữa là trâm vàng, khuyên bạc còn ở trên đầu các người.

"Có tiền là có tất cả!" Hoà Thân đứng trên bờ vùa nhìn mẹ và vợ dần dần chìm xuống sông vừa thở dài.
8 – Vương Bột :
Lòng bàn tay và mu bàn tay đều là thịt. Vợ là người ta yêu nhất, mẹ là người thân thiết nhất. Vậy phải làm thế nào đây? Thôi cứ nhảy xuống sông, thấy ai ở gần thì cứu. Vương Bột vội nhảy ùm xuống sông. "Chết rồi! Ta quên mất là ta cũng không biết bơi!" Vương Bột vẫy vùng một cách tuyệt vọng rồi từ từ chìm xuống sông.
LỜI BÀN :

1. Mạnh Tử: Thương mẹ hơn vợ thì chắc là lai………VIỆT NAM !
2. Chu U Vương: Yêu vợ nồng nàn nên chắc lai…….PHÁP !
3. Lưu Bị: Lo cho anh em đồng chí hơn gia đình là lai………..NGA SÔ (tinh thần quốc tế vô sản)
4.Tào Tháo: Thấy chết không cứu phớt tỉnh……….ĂNG LÊ ( ENGLAND )!!
5. Khuất Nguyên : Tự sát chết theo là tinh thần võ sĩ đạo xứ Phù Tang ( JAPAN )
6. Trang Tử: Giống Tào Tháo lai ………ĂNG LÊ !7.
Hòa Thân: Thực tế kiểu…………….MỸ !
8. Vương Bột: Không biết trời cao đất rộng nhắm mắt liều mạng thì là chính …….gốc quân tử TÀU





Câu chuyện Biệt Ðội Trưởng Tình Báo Thiên Nga
Wednesday, July 21, 2010 Bookmark and Share







Tâm sự về một nghề 'không thể nói hết'


Ngọc Lan/Người Việt


WESTMINSTER
(NV) - Tôi không nhớ chính xác đã nghe đến cụm từ “biệt đội Thiên Nga” từ lúc nào. Chỉ biết rằng, hình ảnh những người con gái, những người phụ nữ từng là “tình báo Thiên Nga” mà tôi được đọc, được xem qua phim ảnh, sách báo, luôn để lại trong tôi dấu ấn khá đậm.
Cũng không biết vì lý do gì. Có thể là sự ngưỡng mộ. Cũng có thể là sự tò mò. Những gì tôi được nghe về họ, cứ như một huyền thoại.
Tôi không biết chính xác lý do.
Cho đến một buổi chiều, suốt một buổi chiều, tôi ngồi nghe một cựu tình báo kể chuyện nghề, chuyện đời của một “Thiên Nga,” tôi bỗng vỡ ra nhiều điều.
Chân dung một tình báo đã trở nên “đời” hơn rất nhiều qua những lời kể của cô, cựu Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy, biệt đội trưởng Biệt Ðội Thiên Nga.

Cựu Thiếu Tá tình báo Nguyễn Thanh Thủy: “Ông xã tôi nói sao tôi nặng nợ với thế gian này nhiều quá!” (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)
Cái nghề là cái nghiệp
Xuất thân trong gia đình không có bất kỳ ai tham gia quân đội hay lực lượng cảnh sát, thế nhưng, hình ảnh nữ y tá duy nhất, Genevieve de Galard, người Pháp, “còn trẻ măng, chưa có gia đình” tham gia trong chiến tranh Ðiện Biên Phủ, được báo chí loan tải, đã đi vào tiềm thức của cô bé Nguyễn Thanh Thủy, khi ấy mới 11 tuổi.
“Tôi thích đi lính từ đó,” cô kể.
Sau khi đỗ tú tài 2 ở trường trung học Mỹ Tho, Thủy không thể theo học Ðại Học Dược bởi lý do sức khỏe. Thay vào đó, Thủy chọn trường Chính Trị Kinh Doanh Ðà Lạt, và trường Sư Phạm Công Giáo.
Tuy nhiên, khi sắp sửa tốt nghiệp thì bên cảnh sát tuyển “sinh viên sĩ quan.” “Vậy là tôi ghi tên dự thi. Lúc đó tôi 21 tuổi.” Cựu thiếu tá tình báo tiếp tục.
Bỏ ngang chuyện học ở Ðà Lạt, đầu năm 1966, Nguyễn Thanh Thủy vào Sài Gòn khởi đầu chương trình học sĩ quan cảnh sát.
Sau một năm huấn luyện, người ta muốn chọn ra năm trong số 18 cô gái được tuyển vào chương trình “biên tập viên cảnh sát” (tức những người phải có bằng đại học hoặc tú tài 2 trở lên), để vào “khối đặc biệt.” Tuy nhiên, không một cô nào muốn mình là người được chọn, ngay cả Thanh Thủy.
“Thế là, Tướng Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia khi đó, ra lệnh cả 18 cô biên tập viên mới ra trường đều phải về khối đặc biệt.” Cô nhớ lại.
Sau khóa huấn luyện đặc biệt, “Biệt Ðội Thiên Nga” được thành lập vào tháng 8, 1968, từ một số người trong số 18 cô gái nói trên.
Và, Nguyễn Thanh Thủy chính là một trong những “thiên nga” đầu tiên.
Năm 1969, sĩ quan cảnh sát Nguyễn Thanh Thủy bắt đầu giữ chức vụ đội trưởng đội nữ tình báo cho đến ngày bị bắt vào tháng 5, 1975.
Biệt đội trưởng Biệt Ðội Thiên Nga năm xưa chậm rãi nhận xét: “Tên tôi, số phận tôi gắn liền với Biệt Ðội Thiên Nga nên tôi mới lãnh 13 năm tù và không ít lần tưởng mình khó thoát được lưỡi tử thần trong thời gian đó. Nhưng nếu chọn lại, tôi vẫn chọn làm tình báo bởi cho dù có những lúc khó khăn, cô độc, nhưng đây là nghề luôn luôn mới, công việc ngày hôm nay không hề giống nhau ngày hôm qua.”
'Không nói thật, không bạn bè, không chia sẻ'
Nghe đội trưởng “Biệt Ðội Thiên Nga” kể lại những năm tháng hoạt động của mình, những cách thức tìm hiểu, móc nối, tiếp xúc, đối đầu, xây dựng, tổ chức cả một mạng lưới tình báo “thiên nga” ở khắp mọi nơi, tôi khẽ hỏi: “Làm công việc này, cô có thấy mình đã phải có một sự đánh đổi lớn không?”
Sau vài giây im lặng, cô nói: “Thì đánh đổi cho đến ngày ba tôi mất, năm 1986, lúc tôi còn ở tù, tôi cũng chưa nói rõ ràng với ba tôi là tôi làm cái gì.”
Dường như niềm u uẩn được gợi ra quá bất ngờ, sau một thoáng tư lự, người phụ nữ mà tên tuổi một thời là mối âu lo của kẻ thù, là sự ngưỡng mộ của nhiều người, chậm rãi kể về những tâm tư chưa từng giãi bày bằng giọng run run.
Không ai trong gia đình, kể cả chồng cô, biết Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy là một “thiên nga,” và hơn thế nữa, là người chỉ huy của những nữ tình báo trong biệt đội “Thiên Nga.”
Người cha, một thầy giáo dạy học, chỉ biết con mình là một thiếu tá cảnh sát.
Người chồng, một sĩ quan xuất thân Võ Bị Ðà Lạt, chỉ biết vợ mình làm ở khối đặc biệt nhưng không biết công việc cụ thể của vợ là gì.
Gia đình chồng chỉ biết, họ có con dâu là một sĩ quan cảnh sát, dạy học ở trường trung học cảnh sát Trung Thu.
Ngoài một số bạn học cùng khóa huấn luyện sĩ quan cảnh sát đặc biệt, và cùng ở chung đội “Thiên Nga,” không mấy ai biết Nguyễn Thanh Thủy là “tình báo,” bởi “nếu nói ra tôi sẽ mất bạn bè. Chỉ nghe nói cảnh sát họ đã sợ rồi chứ đừng nói gì là cảnh sát đặc biệt.”
Chính vì tính chất đặc biệt của nghề, người phụ nữ này dường như không bao giờ thoát khỏi áp lực nặng nề của một con người luôn phải sống trong sự khép kín, không bao giờ được nói thật, và không bao giờ có thể tìm được sự chia sẻ, đồng cảm.
Bởi, rất đơn giản: tình báo là nghề không có quyền tâm sự về công việc của mình, không bộc lộ được tình cảm của mình.
Chia sẻ những “oan ức” này, cô Hà Thị Ðông Nga, trung úy Cảnh Sát, xướng ngôn viên truyền thanh truyền hình Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, và cũng là một cựu “Thiên Nga,” kể rằng: “Ngoài những khó khăn nguy hiểm, người làm công việc tình báo còn phải hy sinh cả tình cảm gia đình và tình cảm cá nhân. Những thiên nga hầu hết đều ở tuổi mười mấy, hai mươi mấy, ai cũng có những tình cảm riêng. Có điều tình cảm riêng đó đôi khi gãy đổ rất oan ức. Nhẹ nhàng thì một buổi chiều mình hẹn người yêu thì công tác dồn tới, hoặc mình chưa ra khỏi được điểm mục tiêu, làm sao giữ được hẹn? Mà nghề tình báo đâu chỉ một ngày một bữa, đó là công việc bất kể giờ giấc. Có thể là 11, 12 giờ đêm có thể là 1, 2 giờ sáng. Lấy lý do gì biện minh cho hành động của mình đây?”
Trung Úy Ðông Nga, tức xướng ngôn viên Hồng Nga nhiều năm làm việc tại đài phát thanh VNCR, tâm sự rằng: “Cay đắng nhất, đôi khi tình cảm gãy đổ mà mình mang một tiếng oan rất nhục nhã. Ðôi khi công tác đòi hỏi mình đóng vai một người ăn chơi trong vũ trường. Mới buổi sáng mình gặp người yêu trong tư cách là một sinh viên ngoan hiền. Ðột nhiên buổi tối, người yêu nhìn thấy mình ăn mặc rất 'sexy' từ trong vũ trường bước ra. Tình huống đó trả lời sao đây? Họ sẽ cho mình là người lừa dối, hai mặt. Nhưng vì công tác, không nói được, mình chỉ biết ngậm ngùi chia tay.”
Trở lại với Biệt Ðội Trưởng Thanh Thủy, cô nói: “Tôi bị đau đầu. Công việc lúc nào cũng mới mẻ. An ninh xã hội cứ biến chuyển, nên cứ phải suy nghĩ hôm nay đặt chương trình này như thế nào, ngày mai giao công việc cho cho người khác ra làm sao.
Chồng tôi làm việc ở xa, mà tôi cũng không thể nói với chồng. Tôi lại phải lo nhà, lo con.
Có nhiều lúc chồng tôi từ Ðà Lạt về bất chợt, nhưng ngày giờ hẹn với tình báo viên từ trong mật khu ra đã có rồi nên đúng ngày giờ tôi phải đi thôi.
Có nhiều khi từ cơ quan về nhà, cả đêm tôi không ngủ được. Ngày mai tôi sẽ tiếp xúc với một cán bộ cao cấp của đối phương. Tôi không biết mình phải nói cái gì, hỏi cái gì, làm như thế nào để họ chịu nói chuyện và cộng tác với tôi, bởi nếu tôi không khéo léo, tôi sẽ mất một đầu mối... Những lo lắng đó, tôi không thể nói được với bất kỳ ai.”
Cũng như một lẽ thông thường, “nói ra những điều để đề nghị khen thưởng, thăng cấp cho cấp dưới dễ bao nhiêu thì khi nói đến chuyện tình cảm lại khó bấy nhiêu.”
Người đội trưởng đội tình báo còn rất trẻ khi đó chia sẻ tiếp:
“Vì công tác, có khi mình phải dùng người của mình tạo tình cảm với đối phương để lấy tin tức. Thế nhưng khi thấy họ bắt đầu có cảm tình với nhau rồi thì mình lại phải yêu cầu người của mình dừng lại, bởi nếu không, sợ cổ sa lầy thì lại nguy hiểm. Lúc đó, thấy rất tội nghiệp, mình là người hướng dẫn họ cách tạo tình cảm, yêu cầu họ phải làm vì công tác. Bây giờ mình lại ngăn cản, chia cắt họ. Thấy tội nghiệp nhưng mình cũng đâu thể nói ra điều đó được.”
“Những điều như vậy cứ khiến mình suy nghĩ. Những điều như vậy, mình biết nói với ai.” Người phụ nữ giàu tình cảm nhưng lại phải sử dụng lý trí để giải quyết những tình huống đó thoáng trầm ngâm.
Cũng vì tính chất đặc thù của nghề tình báo là như vậy, nên “Thiên Nga” Nguyễn Thanh Thủy, người phụ nữ duy nhất mang cấp bậc thiếu tá của khối cảnh sát đặc biệt, đã khuyên con trai mình “nên chọn nghề khác” sau khi nghe con nói ý định theo nghề của mẹ: “Con hãy chọn nghề gì mà có thể nói ra cho anh em vợ con nghe được thì sẽ dễ hơn, chứ tình báo là nghề nghiệp không rõ ràng, cái gì cũng phải giấu diếm, mệt lắm.”
Người đốt hồ sơ Thiên Nga
13 năm tù là thời gian Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy phải trả cho chức vụ “đội trưởng biệt đội Thiên Nga” của mình.
13 năm đó là thời gian đứa con trai đầu của cô bước chân vào trường học và tốt nghiệp lớp 12 mà hoàn toàn không có bóng dáng yêu thương, vỗ về dạy dỗ của người mẹ. Và đứa con trai cũng chỉ thực sự biết mẹ mình là một “tình báo cao cấp” khi báo chí trong nước đưa tin và lý lịch vào đại học của anh bị “bôi đen.”
13 năm đó cũng là thời gian hai đứa con nhỏ khuyết tật của cô thiếu hẳn hơi ấm người mẹ, phải lớn lên trong sự chăm sóc của ngoại, sau đó là của cha, khi ông trở về từ “trại cải tạo” sau hơn sáu năm bị giam mình.
Tôi im lặng lắng nghe, và quan sát người phụ nữ đang nói chuyện với mình.
Tôi hỏi: “Cuộc sống trong tù của cô có khác gì hơn so với những người khác không, khi mang tiếng là đội trưởng biệt đội Thiên Nga?”
“Khắc nghiệt hơn.” Giọng người phụ nữ miền Tây chậm rãi đáp: “Tôi bị giam một mình, cách ly hơn một năm để thẩm vấn từ tháng 10, 1975 đến tháng 12, 1976. Năm 1981, tôi lại bị biệt giam trong phòng tối ở cơ quan X4 hơn bốn tháng.”
Bảy mươi mấy lần Thiếu Tá Thủy bị hỏi cung chỉ vì phía Việt Cộng “không tìm ra được tài liệu hồ sơ Thiên Nga.”
Ðối phương cứ quanh đi quẩn lại điên tiết nhiều lần với câu hỏi: “Tại sao làm nghề này mà chỉ có nhân viên chính thức thôi mà không có mật báo viên. Không có tình báo viên thì thật là vô lý!”
Ðể có được điều “vô lý” mà Việt Cộng khó lòng truy tìm ra được tất cả những người phụ nữ đã tham gia vào biệt đội “Thiên Nga” là bởi “ngày 29 tháng 4, 1975, chính tay tôi đã đốt toàn bộ hồ sơ, cho nên chúng không còn cái gì để mà kiểm chứng.” Người đội trưởng tiết lộ.
Thiếu Tá Thủy tiếp tục câu chuyện năm xưa. Cô cho biết, trong cơn tranh tối tranh sáng, cô đã “không ngủ được cả tuần lễ để quyết định về đội của mình, làm như thế nào để bảo toàn được bí mật.”
Cách mà đội trưởng tình báo chọn là “hủy hồ sơ trước khi mấy cô này có thể bị bắt.”
Cô lý luận: “Tôi là người biết hết mọi người, tôi lại không nói bất kỳ chuyện gì với ai, thành ra khi tài liệu bị đốt hết, mấy cô muốn khai thế nào thì khai, không có tài liệu để đối chất, nên điều đó vừa đỡ cho các chị, vừa đỡ cho tôi. Bởi tôi muốn khai gì tôi khai, tôi muốn giấu nhẹm chuyện gì là tôi giấu. Họ không nắm được bí số, ám danh của tất cả những người đó, các cộng tác viên, tình báo viên cũng vì thế mà không biết đâu mà soi ra, đối chất lại với các cán bộ điều khiển của họ.”
Làm được điều đó, đội trường biệt đội ‘Thiên Nga” cảm thấy an lòng.
Trở về với đời thường
Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy, đội trưởng biệt đội Thiên Nga, bên những hình ảnh của ngày xưa: “Nhìn lại thấy đời sao lăn lóc quá!”
(Hình: Ngọc Lan/Người Việt)
Qua những khóa huấn luyện, những ngày tháng nghiên cứu hồ sơ, cùng những trải nghiệm của chính mình, người chỉ huy tình báo “Thiên Nga” chậm rãi nói về cuộc đời, về những thật giả của công việc một người làm tình báo mà vì những phức tạp của nghề nên khi có sự đảo chánh, hay bất cứ sự thay đổi nào, mình phải chấp nhận cảnh đi tù vì những âm mưu chính trị chung.
“Mình làm mình chịu. Tôi làm hết với lương tâm và trách nhiệm với công việc, và chấp nhận sự phán xét theo pháp luật của mỗi thời cuộc. Còn thì ngoài ra, tất cả đều là con người với nhau.”
Tôi nghe tiếp câu chuyện của người sĩ quan tình báo năm nào sau khi ở tù ra, trở về nhìn ba đứa con xơ xác trong ngày 29 Tết.
Tôi nghe tiếp câu chuyện của người đội trường biệt đội Thiên Nga năm nào quăng mình vào chốn nhân gian mà mưu sinh qua từng bữa mua vay buổi sáng trả lãi buổi chiều.
Tôi nghe tiếp câu chuyện của Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy cùng quán cóc cà phê trở thành tụ điểm của những người sĩ quan xưa, đến tìm sự giúp đỡ bổ túc thêm hồ sơ đi Mỹ.
Và, tôi nghe tiếp câu chuyện của người tị nạn H.O bươn chải trong những ngày đầu đặt chân lên xứ người.
Tư chất của một người tình báo sẵn sàng ẩn mình dưới nhiều vỏ bọc khác nhau đã giúp người đội trưởng Biệt Ðội Thiên Nga khả năng hòa nhập và chấp nhận cuộc sống, dù như thế nào.
Chiến tranh đã qua đi. Quá khứ dần khép lại. Nhưng câu chuyện về thân phận những người đã dự phần trong những biến động lịch sử, nhất là những người làm công tác tình báo, như Biệt Ðội Thiên Nga, vẫn có điều khiến lòng người day dứt.
“Nhìn lại thấy đời sao lăn lóc quá.” Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy kết luận bằng gương mặt mang nhiều tâm trạng.
Biệt đội trưởng Biệt Ðội Thiên Nga cười buồn: “Ông xã tôi nói sao tôi nặng nợ với thế gian này nhiều quá!”
Âu rằng, đó cũng là tâm trạng chung của những “thiên nga” ngày xưa. Lăn lóc là vậy, nặng nợ là vậy, nhưng họ mang đầy trong lòng niềm tự hào, như lời tâm sự của Ðông Nga, tức Hồng Nga: “Không có gì hối hận, vì đằng sau những vẻ chân yếu tay mềm, những dị nghị đắng cay, mình phải gồng gánh biết bao trách nhiệm nặng nề để đạt được mục tiêu lý tưởng của mình. Ðó là điều hãnh diện.”
CHIẾC LÁ VÀNG
Đỗ Dung

Chiều ba mươi tết, bầu trời thấp, mây xám vần vũ chỉ đợi trút cơn mưa. Bước vào Nursing Home, tôi nhìn ông cụ đang ngồi im lặng như một pho tượng trước màn ảnh TV nhỏ mà lòng thấy nghẹn ngào. Như mọi năm giờ này ông cụ đã sửa soạn nhà cửa xong xuôi để đón tổ tiên và sẵn sàng những phong bao đỏ để đợi con cháu. Đối với Bố tôi, ngày tết là ngày thiêng liêng, đêm giao thừa là lúc giao mùa, tống cựu nghinh tân. Nhà cửa phải sạch sẽ, tươm tất; cành mai, cành đào, chậu quất, chậu cúc ... đầy nhà; trên bàn thờ đèn nhang thơm ngát, mâm ngũ quả tốt tươi, đỉnh đồng, chân nến sáng choang ... Thế mà hôm nay ông cụ cô đơn ngồi đây, trước màn ảnh TV, nhìn vào cõi xa vắng.

Tôi lặng lẽ đến gần, ôm ông cụ mà nuốt nước mắt.
- Bố, Bố có khoẻ không? Bố biết con là ai không?
Ông cụ ngước mắt nhìn rồi mấp máy môi:
- Dung!
Mái tóc trắng như tuyết, khuôn mặt già nua mặc dù làn da vẫn hồng hào, trắng mịn. Tôi ngồi xuống bên, cầm tay Bố, nhắc chuyện ngày xưa.
- Bố có nhớ ... ? Bố có nhớ ...???
............ ......... ......... ......... ......... ......... ......... ......... ......... .......

Các bạn của Bố tôi thường gọi đùa Bố tôi là Ông Tam Tá vì Bố tôi là Trung Tá, tên Tá và có một Tá con. Không những có một tá con mà còn đặc biệt là có chín nàng con gái. Người ta thường nói có con gái trong nhà như chứa bom nổ chậm, ấy thế mà Bố Mẹ tôi có tới chín quả bom.

Bố Mẹ tôi lập gia đình năm cả hai đều mới 18. Để rồi năm sau đó anh em chúng tôi lần lượt ra đời, cứ đứa trên hơn đứa dưới hai tuổi. Người ta dễ nhận ra nhà chị em đông qua tên đặt, chẳng hạn như chị em Vân Loan, Vân Nga, Vân Bằng, chị em Phương Lan, Phương Nga, Phương Trà ... hoặc qua dáng người như chị em Lệ Hằng, Mộng Thúy, chị em Lệ Hà, Lan Trân ... Chị em chúng tôi chẳng đứa nào giống đứa nào, đứa cao, đứa thấp, đứa trắng, đứa đen ... vì đứa giống Bố, đứa giống Mẹ, có đứa lại giống bà nội, bà ngoại. Thậm chí có hai đứa cùng giống Bố mà trông cũng chả giống nhau vì mỗi đứa chọn những nét riêng của Bố. Tên thì cũng chẳng vào bộ nào. Đầu lòng là ông anh cả Dũng, dây đầu ba nàng Đỗ Dung, Minh Thuận, Vân Hạnh. Sau chú Tuấn là ngũ long công chúa, Phương Nam, Quỳnh Mai, Anh Thư,Tuyết Minh, Thiên Hương. Tiếp đến là chú Minh Duy, chấm dứt bằng cô út Đoan Thuỳ. Bà nội tôi nói mẹ chúng mày thật khôn, có một tràng pháo lẹt tẹt, lâu lâu lại điểm một quả pháo đùng!
Ông cụ là nhà binh nên nhà cũng theo trật tự kiểu nhà binh. Nhà có bốn tầng thì tầng nhì dành riêng một phòng dài, rộng, một dãy giường và một dãy bàn học kê liền nhau.  Chúng tôi gọi đó là "Trại nữ binh". Riêng tôi, con gái lớn nhất được một phòng riêng trên sân thượng, trông ra mảnh vườn con.

Nhà con đàn, lo cái ăn, cái mặc cũng đủ mệt. Mẹ tôi thường đi chợ Cầu Ông Lãnh mua rau trái để vừa rẻ, vừa tươi. Mía mua cả bó, ốc mua cả thùng, nghêu mua cả bao, trái cây thì mua nguyên cần sé! Riêng cô con gái lớn học Dược đến mùa thi lúc nào cũng có một chục cam sành dưới gầm giường. Bố Mẹ tôi quan niệm nhà con đông như một chiếc xe lửa có nhiều toa, nếu toa đầu mà ngay ngắn thì cả một đoàn xe dài sẽ hùng dũng tiến lên. Ông anh cả đi Pháp ngay sau khi xong tú tài, ỏ nhà còn tôi lớn nhất, lại là con gái nên lãnh nhiệm vụ cái đầu tàu.
Bố Mẹ tôi cùng tuổi Dần còn chúng tôi là một bầy gia súc. Tôi sinh năm Hợi, theo lẽ thường thì khắc với tuổi Dần, nhưng ngược lại tôi là con được cưng. Bố tôi thường hay đùa rằng tôi là Lợn rừng. Lợn rừng nên mới nhờn với Hổ.

Mẹ dạy con theo kiểu của Mẹ. Tôi nhớ ngày đầu tiên khi thấy những vệt hồng trên chiếc quần trắng, tôi cuống quýt chạy đi tìm Mẹ. Sau khi chỉ dẫn cách thức chuẩn bị cho con gái thì ngay buổi tối hôm đó Mẹ đã chui vào giường con thủ thỉ: " Con lớn rồi, con biết không? Từ nay không được ngồi gần con trai, không được để đàn ông nắm tay, đi đường có đứa con trai nào theo không được trả lời, lúc nào cũng phải nhìn thẳng ... v.v ... v.v " Ôi thôi Mẹ dạy đủ thứ làm con bé mười ba tuổi hoảng hồn, lên xe buýt hay xe lam cũng ké né, không dám ngồi cạnh người khác phái.
Bố dạy theo kiểu của Bố. Con gái phải như con dao pha, làm cái gì cũng được, hoàn cảnh nào cũng sống được ... Điều quan trọng nhất của Bố là các con phải tốt nghiệp đại học, phải tự lập về tài chánh dù sau khi lập gia đình.

Đến tuổi dậy thì cả Bố lẫn Mẹ đều chăm chút cho cô gái lớn, mặc dù ba chị em sàn sàn bằng nhau và đều cùng học Trưng Vương. Các em mặc áo dài “tetoron” thì được nhưng chị phải áo lụa toàn tơ. Các em phải ở trong " Trại nữ binh" còn chị được ở riêng một phòng. Bố còn đích thân dắt con lên Vụ Bản để sắm cho con nguyên bộ giường, tủ, bàn phấn màu hồng nhạt. Dù được hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi như thế nhưng tôi bị kỷ luật nghiêm khắc và bị cấm đoán nhiều thứ. Cấm không được mặc áo đầm, cấm không được đi nhẩy, cấm không được có bạn trai khi chưa xong trung học ... Khi đậu xong tú tài tôi muốn lên Đà Lạt học vì tôi yêu thành phố sương mù, yêu những đồi cỏ xanh mướt, những vườn hoa tươi thắm, những rặng thông già với tiếng reo vi vu. Tôi muốn thả hồn với mây, với gió, sống hoà ngợp với thiên nhiên. Bố phản đối ngay, nhất định không cho phép, mặc dù tôi bằng lòng ở nhà bác, chị của Mẹ. Tôi làm reo, ghi tên hầu hết các phân khoa nhưng lang bang không theo học trường nào mà nộp đơn xin đi làm sở Mỹ. Ngày có giấy gọi tôi đi khám sức khoẻ để đi làm, Bố tôi xé toẹt, mắng cho một trận nên thân rồi nắm cổ gửi vào lớp của bác T. T. Tuệ để luyện thi vào trường Dược. Ngày tôi thi đỗ Bố sắm cho tôi từng cái ống nghiệm, từng cái “becher”.

Hai Bố con tôi rất thân nhau vì con hay thủ thỉ với Bố, Bố cũng hay tâm sự với con. Bố đến đón con ở trường thì vào tận giảng đường tìm, khi thấy mặt con bố giơ chùm chìa khoá lên lắc lắc ra hiệu rồi xuống xe ngồi đợi.
Hồi trẻ Bố tôi đẹp trai, nhanh nhẹn, nói năng rất có duyên vì thế nên có nhiều cô ngưỡng mộ. Những buổi chiều hè Bố đưa tôi lên làng đại học Thủ Đức để dạy lái xe, tôi khượi khượi thế là Bố kể hết chuyện của Bố. Tương kế, tựu kế vì biết người biết ta trăm trận trăm thắng (!) . Tôi cứ khươi chuyện và làm như về phe với Bố, Bố đưa tôi đến gặp người ta. Rồi ba chị em bàn nhau đi dẹp giặc giúp Mẹ. Bố nói với chúng tôi:" Bố như kẻ lữ hành đi trên đường thiên lý, thấy bóng mát thì ngừng chân, nhưng Mẹ và các con vẫn là nơi nghỉ ngơi chính thức cuối cùng ". "Bố ngụy biện, Bố không được ngừng nghỉ ở đâu hết, phải đi thẳng về nhà ". Chúng tôi đã trả lời thế. Công nhận là Bố tôi rất thương vợ và các con, không hề xao lãng bổn phận với gia đình.

Mặc dù hãnh diện vì có ông Bố hào hoa nhưng tôi sợ. Tôi sợ những người nổi bật trong đám đông, những kẻ dễ quyến rũ người khác phái. Tôi đổi quan niệm về thần tượng. Thần tượng của tôi sẽ là người trung bình về mọi phương diện và điều quan trọng nhất là tấm lòng chung thủy. Thủy chung thì dù có gặp sức quyến rũ đến đâu chăng nữa cũng chẳng thể ngã lòng.

Hai cô em tôi đã chọn được ý trung nhân còn tôi cứ mãi lãng đãng. Mỗi lần đi phù dâu bạn hay các bà chị họ về lại có người nhờ mối mai, các bạn bè cũng cứ muốn - Mày làm chị của tao -... Mẹ sốt ruột thúc giục - Con còn muốn gì ? Như thế mà chưa chịu? Con còn muốn gì đây? - ... Để rồi sau sinh nhật 24 tôi quyết bỏ những mơ màng, lãng đãng, lông bông và tôi đã gặp chàng, người tôi se tơ, kết tóc.

Tối hôm trước ngày đám cưới, Mẹ dặn đủ điều. Mẹ dạy con chữ Nhẫn, mẹ muốn con nhớ chữ Nhịn vì đối với mẹ đàn bà Nhẫn Nhịn bao giờ cũng thắng ở trận cuối cùng. Bố khóc, Bố là người đa sầu, đa cảm và mau nước mắt hơn Mẹ. Bố thương con, Bố nhớ con và Bố buông câu nói sau cùng: " Tử tế thì ở mà không tử tế thì về với Bố!" Đám cưới là ngày vui mà bố con sụt sùi, chị em bịn rịn. Mẹ cũng thương con nhưng chắc Mẹ thở phào vì đầu đi đuôi lọt, con chị nó đi cho con dì nó lớn, Mẹ còn phải lo tiếp cho tám nàng con gái nữa.

Tôi lập gia đình xong. Biết là cái đầu tàu đã ngay ngắn, Bố Mẹ tôi dễ dãi hơn với các con còn lại. Vân Hạnh muốn đi Đà Lạt học Bố cho phép liền. Tiếp đến Thuận đi lấy chồng. Nghĩ lại tôi thấy cũng thật bất công cho các em tôi vì khi tôi thi trung học và tú tài, chỉ đậu bình thứ mà bố mẹ rất là hãnh diện, dắt cả nhà đi ăn cơm tây để khao, còn các em tôi đậu ưu, đậu bình thì Bố nói con của Bố đương nhiên phải học giỏi! Mỗi lần tôi đi thi Bố sửa soạn cho từ cái quần, cái áo, tự tay Bố là ủi phẳng phiu, bảo Vân Hạnh đưa chị đi và trước khi đi Bố ra cổng đứng đợi sẵn để chắc chắn con không ra ngõ gặp gái.
Ngày tôi sanh con bé đầu lòng, cả nhà đứng đợi trước phòng sanh. Sau khi con bé chào đời bà ngoại bồng cháu đi trước, các dì, các cậu theo sau như một đám rước. Sáng sớm hôm sau Bố vào thăm đem một chai rượu sâm banh để Bố cùng con gái uống mừng cháu ngoại đầu tiên. Kỷ niệm với Bố tôi còn nhiều. Bố tiếp tục lo lắng, săn sóc cho những đứa con của Bố. Sau khi ba đứa lớn yên bề thì Phương Nam lại là đầu tàu của dây sau. Bố lại o bế, chiều chuộng con búp bê Nhật Bổn của Bố. Lịch sử tái diễn.

Biến cố 75 cả gia đình tôi đều bị kẹt lại ngoại trừ ba người con đi du học từ trước và Thuận di tản theo nhà chồng. Cha và chồng tôi đều phải vào trại cải tạo. Mọi việc trong nhà oằn trên vai Mẹ. Mẹ tôi thật xốc vác, đảm đang. Mẹ công bình hơn Bố, Mẹ thương yêu tất cả các con của Mẹ, đối với Mẹ đứa nào cũng là con vàng, con ngọc, là kim cương, hột xoàn của Mẹ. Mẹ chắt chiu, dành dụm để cứ gom đủ tiền lại kiếm chỗ gửi một đứa con ra đi. Cứ như thế Mẹ tung các con của Mẹ ra đại dương để đi tìm tương lai, còn Mẹ và bé út ỏ lại để thăm nuôi và chờ Bố. Nhà toàn con gái thế mà đi trót lọt và đoàn tụ lại hết không bị sứt mẻ gì. Hàng đêm Mẹ thắp nhang cầu nguyện và cảm tạ Phật Trời, Tổ Tiên đã phù hộ cho gia đình, cho con cháu của Mẹ.
Bố tôi trải mười năm trong ngục tù, từ trại Long Giao trong Nam đến Hà Sơn Bình ngoài Bắc, điêu đứng, đắng cay, đói ăn, rét mặc. Bị đau đớn từ tinh thần đến thể xác. Bố được thả về với hình hài yếu đuối, tâm trạng rã rời. Cuối cùng các con cũng bảo lãnh được cha mẹ và em út. Đại gia đình, bố mẹ với mười hai người con đoàn tụ lại hết. Nhân số gia tăng đều đều. Bây giờ bố mẹ tôi đã có hai mươi bốn đứa cháu và bốn đứa chắt. Hàng năm vào dịp Thanks Giving chúng tôi đều tụ họp ở Lake Tahoe, dâu rể, con cháu hơn năm chục người. Bố mẹ chúng tôi sống chan hoà Hạnh Phúc mặc dù đôi khi cũng có những chuyện lợn cợn của cuộc đời.

Được vài năm thì Bố tôi bị "stroke", đôi chân yếu dần, yếu dần. Bây giờ Bố tôi không tự đứng được nữa, nói khó khăn, ăn bằng ống tiếp thẳng vào bụng. Hàng ngày Mẹ tôi phải vào thăm, Bố Mẹ tôi bằng tuổi nhau nên bố già thì Mẹ cũng còm cõi. Mẹ không bịnh nhưng rất yếu, yếu vì tuổi già, yếu vì đã sanh đẻ mười hai lần, yếu vì suốt đời phải nhọc nhằn, lo lắng. Mẹ tôi có tất cả các đặc tính của người đàn bà Việt Nam xưa, chịu thương chịu khó, hy sinh cho chồng con, nhịn ăn nhường mặc, chẳng nghĩ đến thân mình. Đi chợ thì mua con cá rõ to, chọn con gà thật béo, chục xoài phải nhất chợ cho chồng, cho con. Mỗi khi có hàng quà đi ngang, tụi tôi khều khều Mẹ là Mẹ lại móc túi cho tiền. Những lúc chúng tôi nằm dài sát nhau coi TV thì Mẹ nhìn ngắm say sưa rồi nói " Không chịu khó đẻ thì làm sao có những đứa trẻ này!". Người Mẹ thật thơm, mùi thơm dịu mát mà đứa con nào cũng thích rúc Mẹ mặc dù đã lớn tướng.
Mẹ vào thăm Bố, Mẹ đem những phim ảnh ngày xưa, thời các con còn bé tí, hình đám cưới của từng đứa con, hình ra đời của từng đứa cháu, hình những kỷ niệm của gia đình, ngày lễ bạc, lễ vàng của Bố Mẹ. Có chứng kiến tận mắt mới thấy thế nào là tình nghĩa Phu Thê, thế nào là vợ cái, con cột. Thời trẻ Bố có đi hoang Mẹ vẫn nhẫn nhịn, đợi chờ. Bây giờ hai vợ chồng già chăm chút cho nhau. Hai người như hai chiếc lá vàng đang run rẩy trước gió. Như hai ngọn đèn leo lét, dầu cạn từ từ. Vẫn biết rồi cũng phải chia ly, vẫn biết không ai sống hoài nhưng nhìn hai hình bóng thân yêu không khỏi ngậm ngùi. Măc dù con đàn cháu đống, gia đình lúc nào cũng đông vui, nói cười rộn rã, đi đâu cũng có một lũ con cháu vây quanh ...... nhưng cuộc hành trình cuối cùng thì Đơn Độc.
 
Đỗ Dung




Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG

Cái Bóng Của
HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN
hay
 Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn
VŨ TIẾN QUANG 
Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.
Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài:  “Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: “Mình phải như anh Minh”.
Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:
- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.
Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.
Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”

(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
 Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.
Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:




 
Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.
Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.


 
Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.

Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.
Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
-  Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.


Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 !
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.
Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
-  Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
-  Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm.
- Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu ?
- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.
Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Ttá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”.
Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
” Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả “.
Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô :
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.
Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…
Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi :
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
“Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”.
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:
- Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.
Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
- Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ?
Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:
- Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
- Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?

Ghi chú :
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.
Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique) , tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”
Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.

Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.
Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.

Thursday, August 30, 2018



 Báo Mỹ vạch trần cách Trung Quốc gài bẫy thâu tóm Sri Lanka
Mai Vân Đăng ngày 03-07-2018 Sửa đổi ngày 03-07-2018 13:52

media
Cảng biển Hambantota mà Sri Lanka cho Trung Quốc thuê 99 năm.©Lakruwan WANNIARACHCHI / AFP

Trong một tuyên bố được báo chí Sri Lanka công bố hôm 02/07/2018, Đại SQuán Trung Quốc tại Colombo đã gay gắt bác bỏ bài phóng sự điều tra ngày 25/06 trên nhật báo Mỹ The New York Times. Bài báo mang tựa đề rất tượng hình : « Trung Quốc làm thế nào để buộc Sri Lanka nhả ra một cảng - How China Got Sri Lanka to Cough Up a Port »
Đối với Trung Quốc, bài viết của New York Times « đầy định kiến chính trị » và « hoàn toàn sai sự thật ». Phản ứng gay gắt đó xuất phát từ việc tờ báo Mỹ đã vạch trần được thủ đoạn gọi là « bẫy nợ » mà Trung Quốc giăng ra để lừa những nước gặp khó khăn, khuyến khích các nước này vay mượn của Bắc Kinh, để rồi sau đó khi con nợ không trả được thì bắt bí, đòi nhượng những vùng đất hay cơ sở chiến lược, và chấp nhận làm theo Trung Quốc trên nhiều điểm, tựu chung là để mất chủ quyền vào tay Bắc Kinh.
Bản tuyên bố « cải chính » của Đại Sứ Quán Trung Quốc ở Sri Lanka như đã xác nhận điều đó khi nhấn mạnh rằng Bắc Kinh luôn theo đuổi chính sách thân thiện đối với Sri Lanka, « hỗ trợ vững chắc nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ » của nước bạn, và phản đối sự can thiệp của bất kỳ nước nào vào các vấn đề nội bộ của Sri Lanka, ám chỉ đến Ấn Độ.
Và bản tuyên bố đã nhắc nhở Sri Lanka là phải tích cực thực thi các « đồng thuận quan trọng » đạt được giữa lãnh đạo hai nước…, tiếp tục hợp tác trong khuôn khổ chương trình Một Vành Đai, Một Con Đường của Trung Quốc, và tuân thủ các « quy tắc vàng » về « tham vấn rộng rãi, cùng nhau đóng góp và chia sẻ lợi ích ».
Thủ đoạn cho vay thả giàn để đưa con nợ vào bẫy
Bài điều tra của tờ New York Times, được tuần báo Pháp Courrier International tóm lược hôm 28/06, đã nêu bật các khoản tiền khổng lồ mà cựu tổng thống Sri Lanka Mahinda Rajapakse (2005-2015) thân Bắc Kinh đã vay mượn của Trung Quốc để xây dựng hạ tầng cơ sở, trong đó có cảng chiến lược Hambantota ở phía nam đảo quốc ở vùng Ấn Độ Dương này.
Để thưởng công cho con nợ dễ bảo, năm 2015, Trung Quốc đã không ngần ngại rót hàng triệu đô la cho cựu tổng thống Rajapakse để vận động tái tranh cử. Đây là một hành động vô ích, vì ông Rajapakse đã bị người dân loại bỏ bằng lá phiếu. Tuy nhiên, đất nước Sri Lanka đã bị ông đưa vào tình thế không thể trả nợ, và tân chính quyền nước này vào năm 2017 đã phải đồng ý cho Trung Quốc thuê cảng Hambantota trong 99 năm.
Phóng sự của New York Times đã tóm lược thủ đoạn của Bắc Kinh như sau :
« Mỗi lần tổng thống Sri Lanka, Mahinda Rajapakse, quay sang đồng minh Trung Quốc để vay vốn và xin hỗ trợ cho dự án xây cảng đầy tham vọng của ông, câu trả lời của Bắc Kinh đều là « đồng ý ».
Đồng ý, bất chấp việc nghiên cứu khả thi cho biết là cảng sẽ không hoạt động. Đồng ý, mặc dù những nước tài trợ thường xuyên khác như Ấn Độ đã từ chối. Đồng ý, cho dù nợ công của Sri Lanka đang phình to nhanh chóng dưới thời ông Rajapakse.
Qua nhiều năm xây dựng và đàm phán đi, đàm phán lại với Công Ty Kỹ Thuật Cảng Trung Quốc (China Harbor Engineering Company), một trong tập đoàn nhà nước lớn nhất của Bắc Kinh, Dự Án Phát Triển Cảng Hambantota của Sri Lanka nổi bật lên thành ví dụ điển hình của một sự thất bại, đúng như dự đoán.. Với hàng chục ngàn chiếc tàu đi dọc theo một trong những tuyến hàng hải đông đúc nhất thế giới, vào năm 2012, cảng này chỉ thu hút được 34 chiếc tàu mà thôi.
Và thế rồi cảng Hambatota lọt vào tay Trung Quốc.
Tập Cận Bình dùng nợ làm vũ khí thúc đẩy Con Đường Tơ Lụa
Theo tờ New York Times, các hành vi của Bắc Kinh tại Sri Lanka là « một trong những ví dụ đập mắt nhất của phương pháp cấp tín dụng và tài trợ của Trung Quốc để gia tăng ảnh hưởng trên thế giới ».
Đó cũng là một trường hợp điển hình về cách thức mà chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sử dụng nợ như là vũ khí để thực hiện đề án Con Đường Tơ Lụa Mới của ông, và là bằng chứng rõ rệt cho thấy là « các chương trình đầu tư của Trung Quốc là những cạm bẫy thực thụ đối những quốc gia nhỏ yếu, nuôi dưỡng tham nhũng và những hành vi chuyên chế tại những nền dân chủ đang gặp khó khăn ».
Theo Courrier International, trong nhiều tháng trời, nhật báo New York Times đã điều tra về sự hiện diện của Trung Quốc tại Sri Lanka. Nhờ các cuộc phỏng vấn, cũng như những tài liệu mật mà tờ báo thu thập được, người ta đã hiểu rõ hơn về cách thức mà Bắc Kinh và những tập đoàn Trung Quốc dùng đến để thâu tóm đảo nhỏ ở vùng Ấn Độ Dương này.
Tất cả bắt đầu vào năm 2005, khi ông Rajapakse lên nắm quyền. Sri Lanka đã lâm vào nội chiến từ nhiều năm và tân nhân vật số một tại Colombo đã chấm dứt tình trạng chiến tranh bằng cách thảm sát hàng ngàn người Tamoul.
Tờ báo Mỹ nhắc lại là lúc ấy « Sri Lanka ngày càng bị cô lập do những lời tố cáo vi phạm nhân quyền’ nhắm vào vị tổng thống, và « đã phải dựa vào Trung Quốc để được hỗ trợ về mặt kinh tế, quân sự, cũng như hậu thuẫn về chính trị ở Liên Hiệp Quốc để ngăn chặn khả năng Sri lanka bị trừng phạt ».
Mahinda Rajapakse nắm chặt quyền lực trong tay, nhờ vào nhiều người thân trong gia đình đã nắm giữ « 80% ngân sách nhà nước ». Ngay vào năm 2007, phe nhóm nắm quyền đã xin Trung Quốc trợ giúp để xây dựng một thương cảng ở Hambantota, cứ địa của gia đình Rajapakse, nằm trên bờ biển phía nam Sri Lanka.
Và cho dù các « báo cáo nghiên cứu khả thi đều kết luận rằng đề án Hambantota không sinh lợi », năm 2010, Trung Quốc đã tháo khoán cho Sri Lanka khoản tín dụng 307 triệu đô la, với điều kiện là công trình phải được giao cho một công ty Trung Quốc là China Harbor thực hiện.
Cho vay thả giàn, bắt chọn nhà thầu và nhân công Trung Quốc, nâng cao lãi suất
Báo New York Times nhấn mạnh rằng đây là « một yêu cầu thông thường từ phía Trung Quốc cho các đề án của họ trên thế giới, để né tránh việc kêu gọi đấu thầu công khai ».
Bên cạnh đó, theo ghi nhận của New York Times : « Trong toàn khu vực, chính quyền Bắc Kinh cho vay hàng tỷ đô la và yêu cầu hoàn trả với giá cao để rồi thu dụng hàng ngàn nhân công Trung Quốc ».
Trong trường hợp của Sri Lanka, hai năm sau lần vay đầu tiên, ông Rajapakse lại được một khoản tín dụng mới, nhưng với điều kiện là tỷ lệ lãi suất khoản vay trước phải tăng lên 6,3%, một tỷ lệ rất cao.
Đến tháng Giêng 2015, tình hình Sri Lanka thay đổi bất ngờ. Tổng thống Rajapakse triệu tập bầu cử trước thời hạn, và trong những tuần lẽ trước ngày bầu cử, tập đoàn Trung Quốc China Harbor đã « chuyển từ một tài khoản tại ngân hàng Standard Chartered Bank, ít ra là 7,6 triệu đô la vào những trương mục tài trợ cho cuộc vận động tranh cử của ông Rajapakse».
10 ngày trước cuộc bỏ phiếu, những tờ ngân phiếu hàng mấy trăm ngàn đô la đã được phân phát cho những người sản xuất tee shirt, sari để phát cho các ủng hộ viên của tổng thống ứng cử viên. Một tu sĩ Phật Giáo ủng hộ ông Rajapakse chẳng hạn đã nhận được 38000 đô la.
Nhưng vô hiệu. Cử tri Sri Lanka đã loại bỏ ông Rajapakse, bị họ xem là độc tài và bầu lên một bộ trưởng của ông, ông Maithripala Sirisena.
Vừa nhậm chức, tân tổng thống Sri Lanka đã phải đối mặt với một núi nợ tích lũy của nhà nước.
Ngoài cảng Hambantota, Trung Quốc còn được giao phó một đề án khổng lồ là một thành phố ven hồ trị giá đến 1 tỷ đô la, trước bờ biển Colombo.
Bị siết nợ, Sri Lanka bị mất một thế kỷ chủ quyền cho Trung Quốc
Vào tháng 12 năm 2017, theo New York Times « Dưới áp lực nặng nề và sau nhiều tháng đàm phán, chính phủ đương nhiệm tại Sri Lanka đã phải nhượng cảng Hambantota cho Trung Quốc trong thời hạn 99 năm, cộng thêm với 6.000 ha đất xung quanh. »
Và nhờ đó, Bắc Kinh, vốn tuyên bố chỉ có « mục tiêu thương mại » ở Sri Lanka, đã bảo đảm được một thế kỷ chủ quyền trên một vùng đất bên bờ một trong những tuyến hàng hải bận rộn nhất trên thế giới, với một cơ sở có khả năng tiếp nhận lực lượng hải quân, tàu ngầm và các cơ quan tình báo của Trung Quốc.
Đối với Sri Lanka, tình hình không sáng sủa chút nào vì đang nhìn thấy món nợ của mình tăng vọt. Vào năm 2015, quốc gia nhỏ bé 22 triệu dân này phải hoàn trả tới 4,68 tỷ đô la cho các chủ nợ. Năm nay, số nợ tăng lên thành 12,3 tỷ đô la, trong đó có khoảng 5 tỷ đô la nợ riêng Trung Quốc.
Và vòng xoáy nợ tăng vọt tiếp tục. Theo New York Times : « Vào tháng Năm, Sri Lanka đã phải vay 1 tỷ đô la từ Ngân Hàng Phát Triển Trung Quốc để trả các khoản nợ đáo hạn ».
Bài học rút ra được từ Sri Lanka, theo tờ báo Mỹ rất cay đắng : Đó là một khi đã là con nợ của Trung Quốc, lãnh thổ và chủ quyền rất khó được bảo toàn.