Ngày
25.3.1975:
HUẾ bỏ ngỏ
Bát Tú TRÂN HỮU
TỪ
LTG : “ Huế đa nhỏ lệ 40 năm qua vì roi vào tay Cộng Sản bạo tàn
, tôi viết lại những dòng chữ này để một số không nhỏ Quân Cán Chánh VNCH và
nguời dân xứ Huế còn ấm ức trong lòng : Vì sao Quân Đội VNCH thua CSBV+ VC dễ
dàng thế? Bài viết này hy vọng đóng góp
một phần nhỏ thắc mắc của Quí Vị”
1
Huế là thành phố xinh đẹp và kiêu sa toạ lạc ở Miền Trung
Việt Nam, trên bờ sông Huong ( vỹ tuyến 16), đứng hàng thứ ba trên toàn quốc,
sau Sài Gòn và Đa Nẵng. Huế rất tự hào
với câu hò Huế: “Huế đẹp, Huế tho, Huế mo, Huế mộng, Huế hồng hồng tía tía, Huế
nhặt nhặt khoan khoan, Huế êm đềm nhu giòng nuớc Huong giang, Huế du duong nhu
cành thông reo núi Ngự, Biết bao tình tự điệu hát câu đan, Nhớ ai đồng điệu tha
phuong…”. Huế là thành phố tỉnh Thừa
Thiên, Việt Nam. Giữa năm 1802 đến 1946, Huế là Kinh Đô triều Nguyễn. ( từ thế kỷ 17 đến 19). Năm
1775, Trịnh Sâm chiếm Huế, đặt tên là Phú Xuân. Năm 1802 Nguyễn Phúc Ánh ( sau
đó là Vua Gia Long) kiểm soát trên toàn cõi Việt Nam, Huế trở thành Kinh Đô
quốc gia. Năm 1949, Vua Bảo Đại với trợ
giúp của Pháp, dời kinh đô vào Sài Gòn,
Miền Nam VN. sau là Thủ Đô Sài Gòn.
Huế nằm cách Sài Gòn chừng 1,100 km (680 mi) về phía
Bắc, cách Hà Nội 700km (430mi) về phía Nam.
Nhiệt độ vào mùa hè từ 35 - 43 độ C ( 95 -104 độ F,
mùa mua từ 9 đến 20 độ C ( từ 48- 68 độ F), mùa xuân kéo dài từ tháng Giêng đến
tháng Hai, khí hậu tuoi mát, hoa mai nở rộ khắp noi. Mùa thu khí hậu khô ráo,ôn hoà, hợp với du lịch.
Huế có 27 Phuờng, 3 Quận lỵ ( Hữu Ngạn, Tả Ngạn và
Thành Nội) và Tỉnh Thừa Thiên có 8 Huyện.
Dân số: 1 triệu 66 ngàn , bao gồm Huế và Thua Thiên (Theo Nguyễn Hoàng
Vinh, Khoa Địa Lý Tạp Chí NC -2000). Huế
có danh lam thắng cảnh nổi tiếng : Sông Huong, núi Ngự Bình, cầu Tràng Tiền, Đại
Nội, các lăng tẩm triều Nguyễn, Điện Hòn Chén, Thiên Mụ, bãi biển Thuận An, Lăng
Cô ,núi Bạch Mã v.v..
2
Huế có quá khứ bất khuất, kiên cuờng : Đánh bật CSBV+
VC ra khỏi thành phố sau khi chúng chiếm 27 ngày đem ( 31/1/ đến 28//2/1968)
thừa dịp huu chiến Tết Mậu Thân / 1968, CSBV+VC bỏ lại chiến truờng Huế 8.133
xác chết, 98 bị bắt (theo MACV) và 3.000 bị thuong (theo TL. CS), hon 7.000
ngàn dân Huế bị thảm sát và mất tích. Nổi tiếng của CS là tạo những nấm mồ tập thể
vi đại nhất cuối thế kỷ 20 tại Huế.
Huế kết nghia chị em với các thành phố Honolulu, Hoa
Kỳ và New Haven, Hoa Kỳ.
Huế vẫn êm đềm, gợi cảm và mo mộng bên bờ sông Huong,
đâu biết mình sắp roi vào cạm bẫy thảm khốc do các siêu cuờng ngoại bang và
CSBV gây ra vào tháng 3/1975.
2.-
Muu đồ và cuồng vọng của CSBV muốn đánh chiếm Miến Nam VN, nhuộm đỏ lãnh thổ
VNCH.
Co hội đa đến với CSBV : Mỹ cúp viện trợ VNCH, rút
toàn bộ quân về nuớc, có nghia là Mỹ không còn yểm trợ B.52 và tiếp liệu, đạn
duợc để mặc quân đội VNCH chiến đấu lẻ loi truớc khối CS quốc tế. Mỹ là đồng
minh hùng mạnh,đa cam kết mãi mãi sát cánh chính phủ VNCH chống CS đến tận
cùng. nay bỏ ngang. Dù rằng Mỹ đa đổ
quân vào Miền Nam từ 1965 đến 1968 lên đến
549.000 ngàn và đa tổn thất 58 ngàn binh lính chết và mất
tích , tốn kém khoảng 26 tỷ mỹ kim chiến phi. Trong lúc đó, CS Quốc tế viện trợ dồi dào cho CSBV để tấn chiếm Miền
Nam VN: Trung Quốc yểm trợ gần 90%, trên 70 tỷ mỹ kim chiến phi. Giai đoạn 1969
- 1972 là 684.666 tấn vu khí, giai đoạn 1973 - 1975 là 649.246 tấn vu khí (
theo BBC ngày 10-5-2006). Đến 12/1974 Liên Xô viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng
gấp 4 lần hon truớc ( theo Kissinger, Years of Renewal trang 481).
Bắt đầu từ năm 1969 Mỹ rút quân khỏi Miền Nam theo
lệnh Tổng Thống HK Richard Nixon, sau Hiệp Uớc Hoà Bình ngày 27-1-1973 giữa
Kissinger và Lê Đức Thọ tại Ba Lê quân
đội Mỹ lần luợt triệt thoái toàn bộ.
Cuối năm 1973 Hạ Viện Mỹ cắt giảm viện trợ 50% 1974,
1975 khiến VNCH suy yếu, ngày 13/3/1975 Hạ Viện Mỹ bác bỏ 300 triệu viện tro bổ
túc cho VNCH do Tổng Thống Mỹ Ford đệ trình và Đại sứ Martin thông báo cho Tổng
Thống Thiệu biết quân viện 1976 không đuợc chuẩn chi. Tình hình VNCH roi vào cảnh vô vọng. Hoa Kỳ
ký đuợc Hiệp Uớc Thuợng Hải tháng 2/1972 với Trung Cộng và hoà hoãn với với Xô
Viết tháng 5/1972, trút bỏ gánh nặng Việt Nam ( Đông Duong).
3
Đuợc CS quốc tế khuyến khích, Hà Nội mừng rở chụp lấy
co hội xâm chiếm MNVN (CS Trung Quốc khuyến khích và ủng hộ CSBV đánh chiếm
Miền Nam và sau đó sẽ có muu đồ xâm luợc Việt Nam). Mùa
xuân 1975 Hà Nội quyết định chiếm hai thành phố lớn Huế và Đa Nẵng và tiêu
diệt các đon vị ở Quân Khu 1/ Vùng 1 Chiến Thuật.
Lực luợng CSBV và VC o Quân Khu 1 tổ chức duới 3 hình
thức : Quân Đoàn 2 Quân Đội Nhân Dân Việtnam, Khu Quân Sự Trị Thiên và Vùng
Quân Sự 5. Quân Đoàn 2 QĐND đua ra mặt trận 3 Su Đoàn Bộ Binh ( SĐ 304, 324, 325), Su
Đoàn Phòng Không 673, Lữ Đoàn Pháo Binh 164, Trung Đoàn Thiết Giáp 203, Lữ Đoàn
Công Binh Chiến Đấu 219, Trung Đoàn Giao Thông Vận Tải 463; Quân Đoàn 2 do
Trung Tuớng Nguyễn Hữu An chỉ huy, Thiếu Tuớng Lê Linh làm Chính uỷ. Khu Quân Sự Trị Thiên và Vùng Quân Su 5 có Su
Đoàn 3 Sao Vàng, Lữ Đoàn 52 Độc Lập, hai Trung Đoàn Pháo Binh 368 và 572, các
Trung Đoàn Lực Luợng Địa Phuong 94 và 96, hai Tiểu Đoàn Pháo Binh 70 và 72 duới
trách nhiệm chỉ huy của Trung Tuớng Chu Huy Mân và Chính uỷ Võ Chí Công ( theo Hue-Da Nang Campaign/ Part
of the Vietnam war ,trang 3). Chiến dịch bắt đầu 5/3/1975.
Theo Đại Tuớng Cao Văn Viên tại QK.1, BV có 5 Su Đoàn
( 341, 325C, 324B, 304, 711), 10 Trung Đoàn Độc Lập ( 52, 4, 5, 6, 27, 31, 48,
51, 270, 271), 3 Trung Đoàn Đặc Công ( 5, 45, 126), toàn bộ vào khoảng 8 Su
Đoàn. Lực luợng co giới yểm trợ gồm 3 Trung Đoàn xe tăng, 12 Trung Đoàn Phòng
Không, 8 Trung Đoàn Pháo Binh (Theo
Những Ngày Cuối của VNCH trang 160).
3.-
Bố trí chủ lực quân VNCH nhu sau :
*Từ tháng 6/1974, Quân Khu 1 đuợc chia làm hai
Khu Bắc và Nam. Khu Bắc gồm hai tỉnh
Quảng Trị và Thừa Thiên/Huế duới quyền Bộ Tu Lệnh Tiền Phuong đóng ở Măng Cá,
Huế, do Trung Tuớng Lâm Quang Thi chỉ huy. Khu Nam gồm 3 tỉnh còn lại Quảng
Ngãi, Quảng Tín và Quảng Nam/ Đa Nẵng do Tu Lệnh Quân Đoàn 1 Ngô Quang Truởng
trực tiếp chỉ huy.
*Su Đoàn Nhảy Dù và TQLC, Lữ Đoàn 1 Thiết kỵ từ Bắc
Thừa Thiên lên tới Nam sông Thạch Hãn kéo dài sang phía Tây Quảng Trị.
* Bố trí lực luợng co hữu của Quân Khu và Các Liên
Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ các tỉnh còn lại:
-Su Đoàn 1 Bộ Binh và Liên Đoàn 15 BĐQ đóng tại Thừa
Thiên.
-Su Đoàn 3 Bộ Binh và Liên Đoàn 14 BĐQ đóng tại Đa
Nẵng, Quảng Nam.
-Su Đoàn 2 Bộ Binyh và 2 Liên Đoàn 11 và 12 BĐQ bảo vệ
Quảng Tín và Quảng Ngãi ( Theo Nguyễn
Đức Phuong Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 751).
* Các đon vị
yểm trợ :
-10 Tiểu Đoàn Pháo Binh, 1 Tiểu Đoàn Phòng Không, 1 Lữ
Đoàn Thiết kỵ, các giang đoàn xung phong, trục lôi, tuần thám tại Thuận An, các
Duyên Đoàn tại Cửa Việt, Thuận An, Tu Hiền… Su Đoàn Không Quân đóng tại Đa
Nặng. Quân số của Quân Đoàn 1 khoảng
90.000 chủ lực và 75.000 Địa Phuong Quân, Nghia Quân,.gồm các thành phần không
tác chiến. Đây chỉ là số lý thuyết, thực tế thấp hon vì nhiều lý do.
4
4.-Cuộc chiến bắt đầu :
Đầu tháng 3/1975, CSBV tại Quân Khu 1 xâm nhập đánh phá, chiếm quận Hải Lăng, Bắc
Thừa Thiên, xâm nhập các xã ven biển và đánh các cao điểm Su Đoàn 1 ở phía Nam,
tấn công tuyến Sông Bồ nhung bị đẩy lùi bỏ lại 200 xác chết. Ngày 11/3/75, sau khi CS tấn công chiếm Ba Mê
Thuột một ngày, Tổng Thống Thiệu triệu tập cuộc họp cao cấp tại Dinh Độc Lập,
cho biết tình hình khó khăn do viện trợ Mỹ bị cắt giảm, áp lực địch mạnh, ta có
thể giữ đuợc Quân Khu 3, Quân Khu 4 và một vài tỉnh duyên hải Quân Khu 1 và
QK 2. QK 1 chỉ giữ Huế và Đa Nẵng (Những Ngày Cuối của VNCH trang
129,130,131).
Trong khi tình hình quân sự không thuận lợi thì theo
yêu cầu của TT Thiệu, Bộ TTM lệnh cho Tuớng Truởng trả Su Đoàn Nhảy Dù về
Trung Uong.
Ngày 13/3/1975 TT Thiệu lệnh cho Tuớng Truởng về Sài
Gòn họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, tham dự có Thủ Tuớng Trần Thiện Khiêm, Đại
Tuớng Cao Văn Viên, Trung Tuớng Đặng Văn Quang, Trung Tuớng Nguyễn Văn Toàn, TT
Thiệu cho biết tình hình khó khăn do cắt quân viện, không tin Mỹ sẽ can thiệp
dù CS tấn công Miền Nam nên phải tái phối trí lực luợng rút quân bỏ vùng cao
nguyên rừng núi, giữ những vùng màu mở, còn hon liên hiệp với CS.
Ngày 14/3 Tuớng Truởng về Quân Khu 1 họp tham muu, tổ
chức kế hoạch tái phối trí: Nhảy Dù sẽ rút về Sài Gòn. Liên Đoàn 14 Biệt Động
Quân nhận vùng trách nhiệm của Lữ Đoàn 369 TQLC tại Quảng Trị để Lữ Đoàn này về
Phú Lộc thay Lữ Đoàn Dù, một lữ đoàn TQLC ( LĐ 147) sẽ chịu trách nhiệm khu vực
Sông Bồ để bảo vệ HUẾ.
Ngày 17/3 Lữ Đoàn 258 sẽ rời Quảng Trị để về Đa Nẵng
thay Lữ Đoàn 2 Dù. Dân chúng Huế lo sợ
bắt đầu di tản ồ ạt trên quốc lộ 1àm cản trở không ít việc điều quân tái phối
trí.
Ngày 19/3 Tuớng Truởng đuợc triệu về Sài Gòn họp lần
thứ hai, thành phần phiên họp nhu truớc nhung có thêm Phó Tổng Thống Trần Văn Huong, Tuớng Truởng trình bày kế
hoạch lui binh.
5
-Kế hoạch 1 : Các
đon vị sẽ theo Quốc lộ 1 từ HUẾ, CHU LAI về Đa Nẵng. Trong truờng hợp Quốc lộ 1 cắt thì theo kế
hoạch 2.
-Kế hoạch 2 : Các lực luợng Quân Đoàn sẽ tập trung tại
ba cứ điểm : HUẾ, ĐA NẴNG và CHU LAI. Tàu hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế,
Chu Lai về Đa Nẵng.
Trong cả hai kế hoạch, Đa Nẵng là điểm phòng thủ
chánh, điểm tựa cuối cùng. Tuớng Truởng đề nghị giữ cả ba địa điểm để phân tán
lực luợng địch và gây tổn thất tối đa cho VC. Ông Thiệu cho biết giữ đuợc bao
nhiêu hay bấy nhiêu. Đại Tuớng Cao Văn
Viên cho rằng kế hoạch của Tuớng Truởng là hợp lý. Tuớng QUANG soạn bài hiệu triệu trên đai phát
thanh Huế để trấn an dân chúng quyết bảo vệ Huế đến cùng. Buổi họp này không thấy nói đến triệt
thoái mà chỉ là kế hoạch co cụm để giữ đất. (Những Ngày Cuối VNCH, trang 163).
Quảng Trị bỏ ngỏ ngày 19/3. Liên Đoàn 14 BĐQ, Chi Đoàn Thiết Giáp rút về phía Nam
Mỹ Chánh lập phòng tuyến mới. Cộng Quân
bắt đầu tấn công mạnh vào Quân khu. Sáng
20/3 Tuớng Truởng bay ra Bộ Chỉ Huy Tiền Phuong ( Huế) họp các cấp chỉ huy bàn
kế hoạch phòng thủ Huế nhu Tổng Thống Thiệu ra lệnh phải giữ bằng mọi giá. Tình
hình mặt trận tuong đối còn tốt đẹp, các đon vị hoàn hảo, tinh thần cao duy trì
đuợc kỷ luật, ai nấy đồng lòng tử thủ. Dân chúng bắt đầu di tản nhiều. Tuớng Truởng lạc quan khi thấy Huế phòng thủ
tốt. Trua hôm đó, TT Thiệu đọc hiệu
triệu dân trên đai phát thanh Huế. Đến
chiều khi về tới Đa Nẵng, Tuớng Truởng nhận đuợc lệnh của Dinh Độc Lập chỉ
giữ Đa Nẵng thôi nếu tình hình bó buộc, Ông Thiệu lý luận Quân Đoàn 1 không
đủ lính để bảo vệ ba cứ điểm Chu Lai,
Huế và Đa Nẵng, Tuớng Truởng đuợc quyền tuỳ co ứng biến.
Quân Khu 1 ngày một nguy ngập, Cộng Quân đa bắt đầu
tấn công theo thế gọng kìm từ Quảng Trị đánh xuống, từ Quàng Ngãi đánh lên. Dân
chúng ồ ạt chạy từ Huế vào Đa Nẵng, từ Quảng Nam, Quảng Ngãi kéo ra Đa Nẵng.
Ngày 21/3 VC tấn công Phú Lộc ( Thừa Thiên), áp l;ực
mạnh trên Quốc lô 1 trong lúc dân tản cu đông đảo từ Huế vào Đa Nẵng. Su Đoàn 1
VNCH có pháo binh và Không quân yểm trợ đẩy lui cuộc tấn công nhung họ có uy
thế về lực luợng nên Su Đoàn 1 cầm cự đến trua ngày 22/3 thì thất thủ. Trung
Đoàn 1 (SĐ.1) và Liên Đoàn 15 Biệt Động
Quân bị đẩy lui, thất thủ nặng nề, một khúc đuờng Quốc lộ 1 bị cô lập.
Ngày 24/3 tại phía Nam Quân Khu 1, BV tấn công mạnh
Quảng Tín, SĐ 711, Trung Đoàn 52 vá xe
tăng BV đánh Tam Kỳ (Quảng Tín), đặc công đột nhập tỉnh ly thả tù, gây rối loạn
đến trua thì Tam Kỳ thất thủ. Quốc lộ 1 từ Quảng Ngãi đến Chu Lai bị cắt đứt,
đuờng ra biển bị cô lập.
6
Ngày 25/3 trong tình thế khó khăn Tuớng Truởng nhận
thêm nột lệnh nữa từ Dinh Độc Lập, TT Thiệu lệnh dùng ba Su Đoàn co hữu của Quân Đoàn : SĐ1, SĐ2,SĐ3 để
phòng thủ Đa Nẵng, TQLC đóng vai trừ bị.
Ngày 25/3/1975 thành phố Huế bỏ ngỏ. Tuớng Truởng ra lệnh bỏ Huế, cho Su Đoàn 1 và các đon
vị quanh Huế rút về Đa Nẵng và ra lệnh
bỏ Quảng Ngãi, cho Su Đoàn 2, Chi Khu Quảng Ngãi và thân nhân của họ rút ra Cù
Lao Ré (một đảo ngoài khoi Chu Lai). Hai
tuần duong hạm đón SĐ2 tại Chu Lai đua về Cù Lao Ré. Chính phủ tuyên bố Huế và Chu Lai thất thủ.
5.-Huế bắt đầu di tản.
Theo
kế hoạch tổng quát, Bộ Tu Lệnh Tiền Phuong Quân Đoàn 1 do Trung Tuớng Lâm Quang
Thi chỉ huy sẽ chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát cuộc rút quân này. Về
phuong diện vận chuyển. Bộ Tu Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên hải do Phó Đề Đốc Hồ
Văn Kỳ Thoại làm Tu lệnh có nhiệm vụ cung cấp tối đa tàu để chở tất cả các đon
vị thuộc Su Đoàn 1 BB, Thuỷ Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân và Lực luợng quân sự
của hai Tiểu khu Thừa Thiên và Quảng Trị vào Đa Nẵng. Bộ Chỉ Huy Quân Khu 1 sẽ sử dụng LCU để đua các đon vị từ bờ ra tàu, Công Binh sẽ
lập những cầu phao tại các cửa sông để đoàn quân đi qua. Các lực luợng Huế bắt đầu di tản: Su Đoàn 1
BB phòng ngự ở phía Bắc và khu vực cận son ở phía đông Thành phố Huế đa đuợc
lệnh bỏ phòng tuyến và chuyển quân về gần Huế để cùng BTL và các đon vị yểm trợ
rút khỏi chiến truờng Thừa Thiên.
Trong khi đó, các Tiểu đoàn bộ binh và Biệt Động Quân
đang án ngữ phòng tuyến dọc Quốc lộ 1 đuợc lênh di chuyển về bờ biển và tập
trung tại các điểm hẹn để Tàu Hải quân vào đón.
Su Đoàn 1 và các đon vị co hữu rút ra Cửa Tu Hiền. Su Đoàn TQLC và các
đon vị trực thuộc sẽ đuợc triệt thoái bằng tàu Hải quân. Theo Thiếu Tuớng Bùi Thế Lân,TL/SĐ/TQLC, do lênh
rút quân quá nhanh, các đon vị không có thời gian chuẩn bị nên lệnh rút quân
không thực hiện theo thời biểu. TQLC có Lữ Đoàn 369 đang hoạt động tại chiến
truờng Thừa Thiên/Huế, BCH Lữ Đoàn đóng ở Tân Mỹ ( cửa Thuận An ), 2 Tiểu đoàn
đang phòng thủ tại tuyến An Lỗ, cách Huế 17 km, Tiệu đoàn thứ ba o phía Bắc
quận Huong Điền và ở phía Nam sông Mỹ Chánh.
Truớc tình hình đó, nhiều đon vị đa tự tìm ra cách rút quân bằng phuong
tiện tự túc. Một đon vị TQLC rút theo
Quốc lộ 1 để vuợt qua đeo Hải Vân vào Đa Nẵng đa bị Cộng Quân phục kích chận
đánh và bị tổn thuong nặng. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn TQLC cùng một số Đại Đội do Đại
Tá Nguyễn Thế Luong, Lữ Đoàn Truởng chỉ
huy, từ Thuận An đi bộ dọc theo bờ biển về Đa Nẵng. Trên đuờng đi, đoàn quân đa
đuợc LCU và tàu Hải-Quân vào đón. Khi đứng trên bờ điều động quân si lội ra tàu, Đại Tá Luong bị thuong ở chân.
7
Một Tiểu đoàn TQLC và một số đon vị bộ binh cung rút
theo đuờng biển nhung khi tới phá Tam Giang ở cửa Tu Hiền thì gặp phải con sông
chắn ngang quá rộng, bên kia sông Cộng Quân đa chiếm giữ. Theo uớc tính của Tuớng Bùi Thế Lân, chỉ có
một số nhỏ chiến binh TQLC vào đến Đa Nẵng, số đông còn lại bị tử thuong vì
pháo kích hoặc bị kẹt lại ở Huế. Những
nguời bị kẹt lại đa lập thành từng phân đội quyết tử với Cộng Quân cho
đến khi hết đạn. Trong lúc
đó, Lữ Đoàn Kỵ Binh với hon 100 Thiết giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế tiến về cửa Thuận An, theo sau các
đon vị Pháo binh với hàng trăm khẩu pháo, TQLC, BĐQ, ĐPQ từ tuyến Sông Bồ đang lu luợt kéo về, hổn
loạn lại diễn ra. Số đông dân chúng từ
Quảng Trị, Thừa Thiên/Huê cung kéo về đây để đuợc tàu chở vào Đa Nẵng. Hai tàu
duong vận-hạm đến cửa Thuận An chờ TQLC, tàu Hải vận đỉnh và quân vận đỉnh chờ
nguời từ bờ ra duong vận hạm.
Đại
Tuớng Cao Văn Viên nhận định về cuộc rút quân bằng Hải vận tại Huế :
“Trong ngày rút quân, biển động mạnh nên tàu Hải quân
đến trễ. Cầu phao tại cửa sông cung chua hoàn tất kịp để sử dụng. Đến trua thì
thuỷ triều lên cao, không làm sao qua đuợc. Cung thời gian đó, Cộng Quân biết
có cuộc chuyển quân nên tập trung hoả lực pháo binh bắn dồn dập vào các vị trí
ẩn quân tại cửa Tu Hiền và nhiều điểm hẹn để tàu đến đón.”
BTL Tiền Phuong từ Măng Cá chuyển về đặt tại căn cứ
Tân Mỹ cung bị pháo kích nặng. Đại Tuớng Viên ghi nhận rằng trong cuộc hành
trình triệt thoái này “ Vô cùng gian khổ và đắt giá ,phần lớn binh si đều rả
rời, cảm thấy nãn lòng, kỷ luật không còn duy trì nổi, chỉ có 1/3 số
quân nhân về đến Đa Nẵng đuợc. Nhung khi về đến Đa Nẵng, họ tự động bỏ ngu đi
tìm gia đinh và thân nhân. Chỉ còn TQLC là giữ đuợc trọn vẹn tình hình”.
Khi lực luợng quốc gia rút khỏi Huế, thành phố roi vào
cảnh tang tóc, thê luong, trả thù, tắm máu, tù tội, hoàn toàn mất tự do, tín
nguỡng, dân chủ , ngôn luận v.v…đa 40
năm trôi qua, chua thoát ra khỏi bức màn đỏ bạo tàn CS. Liên hệ mật thiết với Huế là Su Đoàn 1 Bộ
Binh thiện chiến bao bọc, giữ gìn Huế trong suốt 20 năm dài lửa đạn, nay phải “
Vinh Biệt chiến truờng Trị Thiên/Huế”.
Si quan, binh si nhu chết lặng khi nghe Chuẩn Tuớng
Nguyễn Văn Điềm, Tu Lệnh SĐ.1 Bộ Binh nói Su Đoàn 1 có lệnh rút khỏi Huế, bao
nhiêu bùi ngùi, luyến thuong vuong vấn sâu trong tim mọi nguời.
6.-Đa Nẵng bỏ ngỏ :
Sáng ngày 29/3/1975 thành phố Đa Nẵng cung bỏ ngỏ do
áp lực của Cộng Quân quá nặng nề : từ Quảng Trị, Thừa Thiên/Huế kéo vào, từ
Quảng Ngãi, Quảng Tín kéo ra khép gọng kìm đánh chiếm Đa Nẵng, Trung Tuớng Ngô
Quang Truởng, Tu Lệnh
8
Quân Đoàn I/ Vùng 1 CT và Ban Tham Muu, ra lệnh bỏ Đa
Nẵng, rút ra điểm hẹn ngoài khoi Đa Nẵng, với Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tu Lệnh
Hải Quân Vủng 1, rồi ra lệnh xuôi Nam về
Sài Gòn. Quân Đoàn 1/Vung 1 CT roi vào
tay CSBV+VC , đặt duới quyền thống trị khát máu của tấp đoàn CS từ cuốt tháng
3/1975.
7.-Quân,
dân, cán, chánh thành phố Huế chung lòng chung sức với Bộ Tu Lệnh Tiền Phuong
QK1 tử thủ với CS nhung lệnh của Tổng Thống và Tu Lệnh Quân Khu 1 bỏ ngỏ
Huế quá nhanh nên gây thiệt hại khá nặng
nề và thuong đau cho quân dân tại cửa biển Thuận An , Tu Hiền, trên Quốc Lộ 1
khi di tản.
Nguyên nhân sâu xa Huế nói riêng và Việt Nam CH nói
chung sụp đổ là không có viện trợ Mỹ .
Lý do thất bại nhanh chóng :
-Lệnh hành quân ban hành từ Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu, Tổng Tu Lệnh QĐVNCH mâu thuẫn, truớc sau bất nhất.
-Lệnh rút quân quá vội vã, nhanh, không có kế hoạch
cản hậu ,làm thiệt hại quân si và dân chúng và thua trận.
-Thiếu sáng suốt khi quyết định rút Su Đoàn Dù thiện
chiến khỏi Quân Khu 1. Tuớng Truởng, Tu
Lệnh Chiến truờng là Tuớng giỏi, đuợc các binh chung tinh nhuệ TQLC, BĐQ… yểm
trợ, nhung thiếu điều kiện vá phuong tiện nên không bảo vệ đuợc Quân Khu 1,
khác với truờng hợp Tuớng Mỹ MacArthur bị Lầu Năm Góc bác bỏ đề nghị nhung ông
vẫn điều động Quân Đoàn X, trong đó có 70 ngàn TQLC/SD1 đổ bộ đánh bật Bắc Hàn
và Trung Cộng lên phía Bắc, vuợt qua vi tuyến 38. Do bại trận, Bắc Hàn chịu ký
Thoả Uớc Ngung Bắn ngày 27/7/1953.
Tóm lại, thành phố Huế cung nhu Việt Nam Cộng Hoà roi
vào tay Cộng Sản BV do chiến luợc toàn cầu của Mỹ, thay ngựa giữ dòng.
Houston, 4-2014
THAM CHIẾU :
-Huế-Danang Campaign/ Part of the Viet Nam War.
-Đan Chim Việt .
-Thời Chinh Chiến.
-Hình Ảnh/ trên Mạng.
No comments:
Post a Comment