C Ô N G C H A
*
Tùy
bút : Trần Hữu Từ.
1. Sương mai còn đọng tren cành cây ngọn cỏ, tôi đã đến
thăm người chiến-
hữu yên giấc ngàn thu từ
2004 tại nghĩa trang Oakhill ( San Jose, Bắc Cali ). Nắng mai
phơi phới lướt nhẹ trên
những ngôi mộ như vỗ về, như an ủi. Hết rồi một đời xông pha
ngang dọc. Đời người “
như gió thoảng, mây bay, như bèo giạt
hoa trôi, như bóng câu
qua cửa sổ”. Chỉ còn lưu lại
công cha được khắc ghi trên bia mộ những người con
hiếu thảo :
< Antôn
Nguyễn Duy Đam ( 1923 – 1997 > :
“Thái Sơn vẫn còn đó
Nhưng Cha chẳng còn
Công cha ghi tạc long con
Lấy chi báo đáp nghĩa ơn sinh thành “.
<
Joshep Nguyễn Trung Trinh ( 1917 – 2003> :
“Cha đi rồi chúng con như đã
mất
Dáng hiền hòa, lời
nguyện buổi kinh chiều
Nhớ thật nhiều những lần
Cha dạy dỗ
Xuân Đông về, long luôn
thấy quạnh hiu “.
< Hoàng Ngọc Hóa (
1965 – 2007) > :
.
“ Xa quê hương sống trong long vô
thức
Nằm ngủ yên tâm thức sống vẹn
toàn “.
<
Nguyễn Tôn Tính ( 1936 – 2006)> :
“Công Cha như núi Thái
Sơn
Nhớ ơn dưỡng dục suốt
đời không quên”.
< LạI Đức Nhi ( 1926 – 2006 )
> :
“Ơn bố như núi như non
Hy sinh tất cả cho con nên
người”..
< Nguyễn Văn Thuận ( 1923 – 2004
)>:
“Chiều khô nước mắt
dâng sầu
Thương Cha thương Mẹ hương vàng về đâu “.
<Nguyễn Văn Thuận- ( 1923 – 2004).
Anh Thuận là ngườI
chiến sĩ Tình-báo trong mặt trận thầm lặng, cùng gia-
đình thoát ra nước ngoài
khi Miền Nam Viet-Nam bi bức tử.
Anh là người cha may mắn hơn cả ba
trăm ngàn (300,000) người cha bị kẹt lại chịu tù đày và hơn sáu mươi lăm ngàn (65,000) bị giết hại khi
Cộng-sản chiếm Miền Nam ngày 30-4-1975.
(Theo giáo sư Karl Jackson, Đại Học Berkely (Mỹ) sau 3 năm điều tra- ( Theo Taì-liệu Cộng-sản Trên
Đất Việt –Giáo sư Nguyễn Văn Canh).
2. Do cuộc nội chiến Quốc-Cộng ( 1954 –1975),
người cha Quốc-gia không chịu
đặt mình dưới chế độ
Cộng-sản nên đành bỏ quê hương chạy vào Nam (1954) và ra nước
ngoài (1975).Những mốc lịch
sử trên là những chặng đường thử thách vai trò nguời cha Việt
rất ư là khắc khe.
Xưa nay, người cha thường bị mang
tiếng không thương con bằng mẹ. Mọi việc trong nhà,
người mẹ đều gánh vác : Sinh
đẻ, bú mớm, tập ngồi, tập đúng, tập đi chập chững, lo việc bếp-
núc, cơm nước, quần áo, sách
vở, học hành, khôn lớn, dựng vợ gã chồng v.v… nên con cái
gần gủi, yêu thương mẹ hơn
cha.
Người cha lo làm việc có tiền nuôi vợ
con, rồi có ông lêu bêu, lông bông, thênh thang
bên ngoài, đi ngang về dọc,
có người rượu chè, trai gái, cờ bạc, bạc tình, bạc nghĩa, vô trách-
nhiệm với gia đình. Nhìn bề
ngoài là vậy, thực tế, người cha nặng gánh nhất trong nhà : Vừa
lo cho gia-đình có nơi ăn
chỗ ở ấm cúng, làm ra tiền bạc cho vợ con có mà tiêu, còn phải gánh-
vác việc quốc-gia đại-sự, xã
thân bảo vệ tổ- quốc và gia đình nên có
hang triệu người cha hy-
sinh than xác chiến đấu bảo
vệ Miền Nam. ( Trong cuộc chiến chống Cộng-sản xâm lăng, Miền-
Nam co một triệu hai trăm
ngàn (1 triệu 200) người cha khoác chiến y
và môt trăm hai mươi
ngàn (120,000) Cảnh-sát
Quốc-gia bảo vệ hậu phương. Tàn cuộc chiến có trên ba trăm ngàn
chiến si quốc-gia vi bảo vệ
Tổ-quốc mà phải hy sinh hay thương tật suốt đời. Theo ước tính
của quốc-tế : Trong chiến
tranh Việt-Nam có hai triệu ( 2 triệu) lính CS chết và năm triệu
( 5 triệu) bi thương..
Ai đã từng xông pha ngoài mặt trận,
ai đã từng vào trại tù cải-tạo của Cộng-sản,
mới nhận chân giá trị
hy-sinh của người cha. Mỏng manh như tơ trời!. Cái chết luôn luôn
rình rập, lẫn quất đâu đó.
Thoáng môt phút đã tiêu tan cuộc đời.
Tình cha thật là sâu sắc và đậm nét. Người cha thương con vô bờ bến
nhưng không bao
giờ tỏ lời thương mến con ra ngoài mặt. Ôm ấp tình
yêu thương đó suốt đời, ngay trong những giây phút hiểm nguy hay trong góc xó
nhà tù khắc nghiệt. Người cha không than khóc, không gào
thét như đàn bà. Chịu đựng và chịu đựng nỗi đau
trong long.
Những bước dìu dắt của người cha là môt kế-hạch lâu dài, một chiến lược
gia đình hầu xây dựng cho những người con học-hành giỏi, thi-cử thành công và
có những mảnh bằng giá trị. Tất cả dành cho tương
lai con cái. Người ngoài ít ai biết được. Khi con hư hay thất bại, người cha
đau khổ hơn người mẹ vì cả một tương lai dày công xây dựng đã sụp đổ; thiên
-thần đã gãy cánh. Bất cứ người cha nào đều mang một hoài bảo lớn khi
sinh con ra : Con sẽtrở thành người tuyệt vời ! Bao nhiêu dự định, kế hoạch tốt
đẹp đều đầu tư vào con cái,để mai sau con trở thành niềm hãnh diện của gia
đình. “Con hơn cha là nhà có phúc”.Hãy tưởng tương nét mặt rạng rỡ của người
cha trong khi con lên khan đài nhận mãnh bằng tốt nghiệp Đại Học, Kỹ Sư, Tiến
Sĩ, Bác-Sĩ v.v…trong lúc người mẹ chỉ
gục đầu khóc vì sung sướng.
Hãy hình dung nét mặt khắc khổ, câm lặng khi hay tin người con tử nạn
dù rằng lòng họ đau đớn vô cùng nhưng không để lộ ra ngoài.
Để tưởng nhó công ơn sinh thành, người ta
thường ca tụng tình yêu ngườI Mẹ hơn người Cha. Các ngàyMother’s Days bao giờ
cũng rộn ràng khắp nơi. Các cửa hang tấp nập những người mua quà cho Mẹ. Các
ngày Father’s Days thưa thớt, lặng lẽ. Quà cáp mua cho cho bố dơn giản thôi, ít khi đáp ứng được ý
thích của bố.
3.. Đa số người cha Việt ở Miền
Nam Viêt-Nam đều là công chúc, quân nhân nên khi Cộng-sản chiếm Miền Nam (1975), người
cha buộc phải đi tù, cái gọi là Cải- Tạo :”Tha
tội
chết, trừng trị tội sống” để cách ly tình cha con. Ở lứa tuổi thanh xuân (đa số
từ 30 đến 40), con
cái
còn nhỏ dại ( trên dưới 10 tuổi) nên họ không làm tròn thiên chức người cha. Họ
không thể
thực
hiện được những gắn bó giữa tình cha con. Đáng lý ra, họ dành nhiều thì giờ cho
con mình,
đọc
sách , làm thầy giáo , là thần tượng , thể hiện tình yêu thương, lắng nghe con
tâm
sự, dự những bữa cơm gia-đình, yêu thưong, tôn trọng mẹ nó và giữ được kỹ luật
gia-đình v.v..
Trong
lúc đó tiếng cha chỉ là dư âm, là nơi chốn xa xăm gởi về, là những cánh thư rời
rạc ( Tù
đụơc
viết thư ba tháng môt lần). Hình ảnh người cha lu mờ dần trong trí con trẻ,
ngày càng khôn
lớn,
chưa kể đến tình cha con bị phôi pha do con trẻ bị nhồi sọ* bởi lý thuyết
Cộng-sản :
“Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình là một thương Ông thương
mười
Ông Staline, ơi hởi Ông
Staline” ( Nhà thơ Tố Hữu ).
Và bị buôc vào doàn “ Cháu ngoan Bác
Hồ”, “Đoàn Thanh Niên Tiên Tiến”.
Đúa con trai út tôi sinh 1974. Tôi đi
tù từ 1975 và ra tù 1988. Khi tôi về nhà, nó không biết
tôi
là ai. Tuần sau, nó tâm sự với bạn :” Ông nào lạ hoắc đến nhà tau ở, bắt gọi
bằng ba mà còn
la
rầy tau và mấy anh chị tau nữa”.
Người mẹ thay cha lo toan moi việc trong nhà.
Đa số các bà vừa vất vả dạy con, lo sức khỏe cho
con
vừa xoay sở miệng ăn, miệng uống, nơi ăn chỗ ở vì 90% tập thể sĩ-quan và
công-chức
Việt-Nam
Cộng Hòa có đời sống không được sung túc vì đồng lương quá eo hẹp. Cho nên tài-
sản
dể lại cho vợ con chẳng có gì, chỉ trừ một số ít giàu có.. Để có ăn và có tiền
nuôi chồng
trong
trại tù, họ phải bán dần từ chiếc lắc , dây chuyền vàng, đồng hồ, Ti-vi, radio,
tủ lạnh, tủ-
thờ,
xa-lông cho đến những chiếc áo, chiếc quần và những kỹ vật thân thương nhất.
4. Thật là Ơn PhướcThượng Đế
dành cho người cha Miền Nam. “ Sau cơn mưa trời lại
sáng”.
Đến năm 1990, những người tù cải-tạo được cho tái định cư tại Mỹ cùng với gia
dình
trong
chương trình H.O do Mỹ và các thế lực quốc tế can thiệp.
Giờ đây gia-đình H.O được nở mặt nở
mày, với xóm giềng. Ai ai cũng kính nễ, không còn
chê
bai “ Con Ngụy”, “ Gia Đình Ngụy”, muốn làm bạn, muốn kết than, kết tình nghĩa
suôi-gia v.v..
Những
gia đình H.O có nhu cầu tiền bạc, mở lờ đều được thoả mãn ngay. Môt số gia-đình
H.O.
nghèo
ngặt, không có đủ vài chục mỹ-kim dằn túi khi xuất cảnh.
Các bà vợ và con tù sống cơ cực, đọa
đày, bầm dập trong Xã Hội Chủ Nghĩa nhiều năm dài,
nay
được theo chồng, theo cha đến Mỹ như từ
Địa ngục (Cộng-sản) lên Thiên-đàn (Tây-phương).
Sự
hy sinh của ngườI cha trong những năm tù bây giờ mới thấy có ý-nghĩa, mới thấy
chân giá trị.
Các
con sực tỉnh và cảm nhận thấm thía tình cha, thương yêu, qúi mến, kính nễ, các
con
chiu
vâng lời, lễ phép, tuân phục. Bước chuyển hướng này là cơ hội tốt, dễ dàng cho
người cha
dạy
dỗ, hướng dẫn con cái hội nhập và thành công khi ở quê hương mới.
5.
Đến Mỹ, một lần nữa, người cha chịu gian khổ làm việc, không chùn bước,
hầu
mang lợi ích cho gia-đình. Là thế hệ đầu tiên
tạm cư tại Mỹ, người cha tình nguyên làm viên-
gạch lót dường cho con đi tới, làm chiếc
thang cho con trèo lên cao và làm cây cầu cho con
qua sông để vượt thắng mọi trở ngại, khó khăn
hầu mang lại thành công ở quê hương thứ hai
vì hoài bảo của người cha là các con ở thế hệ
thứ hai phải thành công để dìu dắt thế hệ thứ ba
là cháu nội, ngoại được thành công rực rỡ,
huy hoàng gấp nhiều lần hơn thế hệ cha, ông.
Trong thời gian này, dù
vất vả, tình cha con, vợ chồng khắn khít hơn, thâm sâu
hơn, đậm đà hơn. Gia-đình nào có người vợ,
người mẹ đảm đang, thương con, thương chồng,
chịu khổ cực, chịu hy sinh, không vọng ngoại,
nuôi dạy con ăn học theo truyền thống Viêt-nam
thì thành công. Ứơc tính khoảng 80% gia dình
này thành công trên đất Mỹ hay nước ngoài.
Sau 10, 20 năm ở dất
tạm dung, hoàn cảnh đã chuyển đổi mới, con cái trưởng
thánh, đỗ đạt, có công ăn việc làm vững, có
nhà cửa thênh thang, có vợ có chồng, them dâu,
thêm rễ, cháu nội, cháu ngoại đầy đàn. Vai trò
cha mẹ trong giai đoạn này quan trọng hơn cả :
Quảng đại, đạo đức, công bằng dành tình yêu
thương mọi người nhu nhau. Cứ như “thoát tục”,
“Mọi việc trên quả đất này không có gì quan
trọng”. Nay cha mẹ ở nhà người con này, mai mốt ở nhà
đúa khác, du
lịch đó đây, về Việt-nam vui chơi, thăm viếng bà con lối xóm, xa gần cho tâm-
hốn thảnh thơi, yêu đời và biết săn sóc sức khỏe cho
mình và bạn đời với một tinh thần
thoải mái trong một than thể khỏe mạnh.
Đối với con cái, dâu,
rễ thật long yêu thương vì Ơn Trên đã ban phát cho ta
một hạnh phúc tuyệt vời thì cố un đúc, vun xới
và giữ gìn tốt dẹp.
Tục ngữ, ca dao có câu dạy
đời :
- “ Dâu dâu, rễ rễ cũng kẻ là
con “
- “Con gái là con người ta,
Con dâu mới thật mẹ cha mang về”.
- “Dâu hiền rễ thảo”.
- “Dâu hiền hơn gái, rễ hiền
hơn trai”.
Đối với cháu nội,
ngoại, ông bà càng thương yêu hơn, chịu khó dạy dỗ lễ-
phép “Đi thưa về gửi “.tập nói, đọc, viết
tiếng Việt, dạy con cháu giữ truyền thống :” MườI
đời không rời cánh tay “.
Cha mẹ già, bệnh tật
là vấn nạn lớn của người con tại Mỹ nhưng người Việt
sống theo truyền thống Đại Gia Đình (Big
Family) nên con, dâu, rễ cháu nội, ngoại đều có
thể sống chung hạnh phúc. Mỗi nhà có thể có 4, 5 phòng ( hay nhiều hơn) ngăn
cách riêng,
trong đó có TV, phòng tâp thể duc, phòng tắm
v.v… tự do giải-trí, âu yếm .
Điều tự hào cho
Dân-tộc Việt-nam : Rất ít người Việt vào nhà dưỡng-
lão ( nursing homes). Con cái cũng nên hy-sinh
môt phần hạnh phúc cho bố mẹ vì tuổi
già sớm tắt, phần đời các con còn dài ,có
nhiều cơ hội vui sướng riêng cho mình.
6.
Đa
số con cái người Việt rất hãnh diện và nổi tiếng về đức tính hiếu thảo.
Ngày xưa Nguyễn Trải theo tiển chưn cha là Phi Khanh
bị bắt dẫn độ về Tàu, đến tận
ải Nam Quan- biên giới
Việt-Trung .
Từ biệt cha, Nguyễn Trải thưa :
”
Con xin về, mài gươm chờ báo phục”.
Phi Khanh :” Cha mĩm
cười nhắm mắt bên Trung Hoa”.
Nguyễn Trải :” Kính
chúc cha lên đường sang cõi chết
Vui từ đây
cho đến lúc ly trần”.
Ngày nay ( sau 1975) có
những người con từ Mỹ và các nước ngoài về Việt-Nam
tìm cha mất tích trong cuộc chiến. Từ Đồng Hà/ Quảng
Trị cho đến Cà- Mâu, những dấu chưn
của những người con không bỏ sót một nơi nào : Những
làng mạc xa xôi, những núi rừng
hiểm trở, những nơi chốn còn vương dấu binh lửa, bom
đạn, những trại tù (cải tạo) xa xăm,
hẻo lánh, những trại tâm thần v.v…để tìm tông tích và hài cốt cha bị vùi chôn.
Ngày xưa, có Nàng KIỀU < trong Truyện Kiều của Nguyễn Du > vì chữ
Hiếu
bán mình chuộc cha. Ngày nay (sau 1975) có hàng vạn
Nàng Kiều vi chữ Hiếu, vì thương
cha, yêu mẹ chịu làm “ cô dâu nước ngoài” do các
công-ty mô giới Xã-hội Chủ-nghĩa
giới thiệu cho các nưóc như Đại-Hàn, Singapore,
Đài-Loan, Trung Quốc, Ấn Độ v.v…
Bài thơ sau đây của Ý Nga “Lấy chồng Đài Loan “ diễn tả nổi bất hạnh của
thân phận gái Việt :
“Gã đâu mà “ lấy chồng “ nào ?
Đường xa vạn dặm chẳng
cầu sao vay ?
Đài Loan đảng bắt đi
… đày ?
Bán dâm xuôi ngược, vũng lầy nhơ thân
Nuôi con má nhịn đủ phần
Bán dâm chẳng … vốn đảng
cần chi lo ?”.
Có những trường hợp bị chồng hành hạ, làm nô lệ tình dục cho cả gia-đình
và bi
đánh đập chết người như cô Huỳnh-thị-Mai, lấy chồng
Hàn-quốc, chết cuối tháng 7/2007.
Theo Thống-kê 2005 của nhà nước CSVN : Từ 2003 đến
2005 có khoảng 32 ngàn (32,000)
phụ nữ VIệt-nam lấy chồng nước ngoài, phần lớn là
Nam Hàn, Đài-loan, Trung-quốc. Hiện
có khoảng 15-17 ngàn cô dâu VN lấy chồng Hàn-quốc,
sống tại Nam Hàn. Số người lấy chồng
nước ngoài
bây giờ (2008) có thể tăng nhiều hơn.
Trong nỗi thao thức, trăn trở, tiếc nuối, nhớ thương công cha nghĩa mẹ,
người con
hiếu thảo nhậm ngùi tưởng nhớ đến người cha với tâm
tình rất xúc động :
“Thương nhớ đầy vơi mắt lệ nhòa
Dặm trường ly biệt mãi chia xa
Âm dương đôi ngã buồn ngăn cách
Phụ tử tình thâm vẫn thiết tha”.
………………………
“Cha là ngọn núi
cao sừng sững
Là ngọn đèn soi
rõ dấu chưn con
Lòng của cha
không bao giờ hờ hững
Theo dấu con đi
mấy dặm mòn”. <Hàn Thiên Lương trong NHỚ NGUỒN>
Tiếc nuối không nguôi bóng dáng người cha đã chìm khuất trong dĩ vãng :
“Cha tôi như thể cây cao
Tôi trèo tôi hái nghiêng chao lá cành
Cha tôi sâu thẩm sông xanh
Tôi bơi tôi lặng mênh mông giữa dòng”.
Hoặc :
“Bóng cha là cả
thiên thần
Nắng nung khô khát
nhớ vừng mây che
Bóng cha là cả bờ
tre
Tôi nằm trên cỏ lắng nghe tiếng người”.
<Nguyễn Tiến Toàn trong Tuyển Tập Thơ “Tự Tình VớI Huế”
7 Nhờ dòng máu cha, nhờ thân xác mẹ
un đắp cho ta thành người. Công cha
sinh, mẹ dưỡng nên ta có trí
khôn, để hôm nay có vị trí tốt đẹp, có cơ hội làm giàu, có môt
trời hạnh
phúc (tuy rằng có những mảnh đời thiếu may mắn). Tuy nhiên ta nên luôn thương
kính bố mẹ
gần đất xa trời, ở cuối cuộc đời già yếu bệnh tật.
Ca dao có câu “
“ Công cha ba
năm tình thâm nghĩa nặng,
Nghĩa mẹ
đậm đà chin tháng cưu mang
Bên ưót mẹ
nằm bên ráo con lăn
Biết lấy ai
đền nghĩa khó khăn ?”./-
= trần hữu từ =
No comments:
Post a Comment