Nỗi Buồn Xa Xứ - Lê Phạm Xuân Hồng
Bà Hồng sinh năm 1936, nguyên là giáo viên tiểu học
lúc còn ở quê nhà. Bài viết của bà Hồng kể chuyện một chuyện buồn gia
đình: bà mẹ chồng đành phải đi "trông nom con người ta" vì không thể ở
nổi với vợ chồng người con trai, dù chỉ để trông nom dùm đứa cháu nội mà
bà rất yêu quí.
*****
Đêm đã khuya mà tôi không tài nào chớp mắt được. Tiếng đứa con dâu nói từ ban chiều vẫn còn văng vẳng bên tai tôi:
Đêm đã khuya mà tôi không tài nào chớp mắt được. Tiếng đứa con dâu nói từ ban chiều vẫn còn văng vẳng bên tai tôi:
"Anh hãy chọn lựa đi. Một là mẹ, hai là em và con, chứ em không chịu nỗi cảnh này nữa đâu!"
Tiếng thằng con trai tôi nhỏ nhẹ giải hòa:
"Thì
mẹ vẫn ở nhà trông cháu, hằng ngày chúng ta đi làm từ sáng đến tối, mẹ
vẫn chu toàn nhiệm vụ, nào tắm rửa, nào cho cháu ăn. Không có mẹ thì em
phải thuê người giữ tụi nó, vừa tốn tiền mà lại không chắc gì cẩn thận
và chu toàn hơn mẹ, phải không""
Con dâu tôi vẫn giữ lập trường của nó:
"Cẩn
thận cái nổi gì" Mới tuần trước mẹ để nó bò lê bò lết ở sàn nhà, vừa
bẩn lại vừa bị đụng đầu vào bàn, đau quá khóc thét lên, anh còn nhớ
không" Em không chịu nổi bà già cổ hủ đó nữa đâu!"
"Em không được hỗn với mẹ".
Vừa
nói, con trai tôi vừa sấn tới gần vợ nó, tay giơ cao định tát. Từ buồng
trong, tôi vội vàng tông cửa chạy ra để cản ngăn thằng con kẻo nó đánh
vợ thì nhất định vợ nó sẽ gọi cảnh sát và sự việc sẽ trở nên tồi tệ hơn.
Nhưng may sao, tôi chưa ra đến nơi thì con tôi đã kịp dừng tay. Tánh
tình nó tôi biết, thường ngày hiền lành ít nói nhưng cộc tánh, chẵng
hiểu sao hôm nay, cám ơn phật trời, lại dằn được.
Tôi đứng giữa hai đứa, cất tiếng nói đầy nước mắt:
"Các
con đừng cãi nhau nữa, Mẹ đã tìm được chỗ làm rồi. Một tuần nữa, người
ta sẽ đến đưa mẹ đi đến nhà người ta để trông nom con người ta và ở lại
đó luôn. Mẹ không muốn hai con phải vì mẹ mà chia tay, vì mẹ quá thương
cháu nội của mẹ nữa."
Con trai tôi chận lời ngay:
"Không! Mẹ không phải đi đâu cả. Đây là nhà của Mẹ, mẹ cứ ở lại đây. Con không muốn mất mẹ, mất vợ thì còn..."
Tôi biết con tôi muốn nói điều gì nhưng sợ quá đà thì vợ nó lại làm ồn lên nên tôi cố mở nụ cười héo hắt:
"Thì
có mất mẹ đâu mà các con lo. Thỉnh thoảng mẹ về thăm cháu, thăm con
luôn. Mẹ hiểu tấm lòng hai con và mẹ không muốn hai con sống mà cứ hục
hặc vì sự hiện diện của mẹ mà mất hạnh phúc."
Thế
rồi tôi trở vô phòng. Bữa cơm tối diễn ra buồn tẻ. Dọn dẹp xong, tôi
chơi với thằng cháu nội một lát rồi giao lại cho mẹ nó, quay vào phòng.
Tiếng
chuông đồng hồ thong thả buông ba tiếng, tôi vẫn nằm chong mắt nhìn lên
trần nhà. Đêm đã khuya, ngoài đường đã vắng tiếng xe qua lại. Có tiếng
chim ăn đêm bay ngang qua, buông tiếng kêu rời rạc buồn tẻ. Tiếng chim
lạc lõng cô đơn làm tôi liên tưởng đến thân phận mình.
Ba
năm về trước, khi thằng con trai gởi thư về ngỏõ ý lập hồ sơ bảo lãnh
cho tôi qua đoàn tụ, tôi viết thư từ chối ngay: "Mẹ không muốn rời bỏ
quê hương, nơi có mồ mả ông bà tổ tiên nội ngoại, nhất là có nấm mồ của
ba con. Ba con mất đi trong cuộc chiến, trong những ngày tàn khốc nhất
để làm tròn chữ trung với tổ quốc Ba chỉ mong con, đứa con duy nhất của
ba mẹ, lớn lên học hành thành đạt và nên người. Nay, con đã lấy được
mãnh bằng kỹ sư nơi xứ người, đã có vợ và sắp làm cha, đó là những gì mẹ
mãn nguyện lắm rồi và chắc là ba con cũng đang mỉm cười nơi chín suối."
Nhưng
những lá thư sau dồn dập gởi về làm tôi không thể từ chối được cái tấm
lòng hiếu thảo của nó: "Thưa mẹ, con hiểu nỗi lòng của mẹ. Từ khi ba con
mất đi, dù còn tuổi xuân nhưng mẹ vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con. Với
đồng lương ít ỏi của một cô giáo tiểu học, mẹ vẫn dành cho con những gì
đầy đủ nhất để khỏi thua kém bạn bè ở lớp ở trường. Con không thể nào
quên được nét mặt vui tươi rạng rỡ của mẹ khi con báo tin con thi đỗ
trung học. Mẹ thắp nhang trên bàn thờ ba, lâm râm khấn vái, và rồi mẹ
khóc. Những giọt nước mắt sung sướng tự hào vì mẹ đã hoàn thành một phần
nhiệm vụ với người đã khuất. Những cực nhọc đã qua nay đã có một phần
đền đáp. Nhưng khi con xin phép cho con đi tìm việc làm khoan vào đại
học, có thêm đồng lương để phụ mẹ đỡ ngược xuôi gian nan trong cuộc sống
thì mẹ giận ngay: "Tôi có què quặt gì đâu mà anh phải đi làm nuôi tôi.
Thôi thì anh cứ kiếm việc còn tôi thì vào chùa tôi tu." Con vội vàng thi
vào đại học. Và thời cuộc dồn dập xảy ra, mẹ thôi dạy học, mở một quán
nhỏ ngay trước hiên nhà, buôn bán tạp hóa. Mẹ nhịn đói nhịn khát, chắt
chiu từng đồng một cho con vượt biển đi tìm tương lai. Trầy truột bốn
năm lần thì con thoát. Lúc con đặt chân lên đảo Bidong thì đôi mắt mẹ đã
thâm sâu vì bao nhiêu lo lắng dồn dập, vì bao đêm mất ngũ. Con nhớ
những sáng trời lạnh, mẹ dậy sớm đễ ra chợ mua thêm hàng về bán, cơm
nguội tối hôm qua vẫn còn trong nồi nhưng mẹ không ăn, sợ con dậy sau ăn
không đủ. Mẹ thường nói với con là ăn không no thì học chữ không vô. Mẹ
nhịn cho con no, mẹ chắt chiu cho con có tương lai và nay con đều có cả
mà mẹ thì vẫn vò võ ở quê nhà, cò mẹ vẫn lặn lội bờ ao thì thử hỏi con
có xứng đáng là con của mẹ hay không" Thưa mẹ, con tin rằng khi biết con
bảo lãnh mẹ qua sum họp với con bên này thì ba con chắc rất là vui mừng
lắm."
Thế rồi phỏng vấn, rồi có nhập cảnh, tôi
sang Mỹ đoàn tụ với con sau gần năm trời hoàn tất thủ tục. Phải công
nhận một điều là vợ chồng nó thương nhau lắm. Chúng nó có học vấn, đi
làm cho những hãng có tiếng tăm, thu nhập chắc khá lắm mới có căn nhà
thật lộng lẫy, trang trí toàn đồ Ý đồ Pháp mắc tiền.
Thằng
cháu nội sinh ra càng làm cho không khí hạnh phúc của chúng nó thêm
nhiều hơn. Nuôi thằng cháu nội hàng ngày, tôi mừng thầm trong bụng vì
tông đường đã có người nối dõi. Nhưng có điều mà mãi đến giờ tôi mới
nhận ra được: con dâu tôi không muốn mẹ chồng sống chung trong gia đình.
Không biết nhận xét tôi có đúng hay không nhưng vì tôi là người đàn bà
Việt Nam đã từng làm dâu, nhất là làm dâu trong gia đình gốc Huế cổ
kính, cho nên luân lý đạo đức cổ truyền Việt Nam vẫn luôn tồn tại trong
tôi.
Đáng lẽ tôi phải nhìn nhận sớm hơn cuộc sống ở
Mỹ này khác nhiều hơn cuộc sống ở quê nhà thì chắc con dâu tôi không
gọi tôi là "Bà già cổ hủ". Nhưng thật mà nói thì tôi hoàn toàn không
giận gì nó vì tôi thương thằng con trai có hiếu của tôi, và thương thằng
cháu nội mà tôi mong ước từ lâu, không muốn gia đình nó xáo trộn.
Câu
chuyện ban chiều mà tôi buộc miệng nói ra bây giờ lại làm tôi lo lắng.
Từ khi qua Mỹ đến nay, nào mấy khi tôi ra khỏi nhà vì mình chẳng quen
biết ai. Tìm được chỗ làm chỉ là một lời nói dối mà trong lúc quá cấp
bách, tâm trí tôi đã mách bảo như vậy để qua cơn sóng gió gia đình.
Chuông
đồng hồ lại buông năm tiếng, tôi vẫn chưa ngủõ được, cứ trở trăn mãi.
Cái nệm dày và êm mọi khi nay lại thấy cưng cứng, không thoải mái như
cái chõng tre trong gian nhà nhỏ ở quê An Cựu, nhưng rồi cũng thiếp đi
lúc nào cũng không biết.
Trong giấc mơ, tôi thấy
một ngọn đèn nhỏ luồn lách từ hẽm này sang hẽm khác với tiếng rao khàn
đục lê thê: "Ai...hột vịt lộn..." Đúng rồi, tiếng rao đêm của người bạn
giáo viên dạy cùng trường, con đông mà ông chồng lại nghiện ngập nên ban
ngày đi dạy, tối đi bán hột vịt lộn kiếm thêm tiền. Khi đi ngang qua
nhà tôi, chi ngưng tiếng rao và cố đi nhanh, ánh đèn con hắt hiu đong
đưa theo nhịp chân của chị. Đứng trong bóng tối nhìn theo bóng dáng gầy
còm của chị, nước mắt tôi cứ tuôn rơi. Tôi thương chị, biết bao giờ chị
mới hết khổ, hay cuộc sống hẩm hiu cứ bám lấy chị cho đến ngày chị xuôi
tay nhắm mắt.
Mộng và thực, thực và mộng cứ quyện
lấy nhau làm cho tôi bàng hoàng, không biết rằng mình mơ hay tỉnh. Tôi
nhớ đến Cồn Hến nơi có giống bắp vừa ngọt vừa bùi, lại vừa túi tiền của
người bình dân. Tôi nhớ con đường Nam Giao thẵng mà không bằng, một
chiều cuối năm tôi cầm bó nhang đi thăm mộ chồng trước khi xuất cảnh.
Trong cảnh vắng lặng chiều hôm, tôi nghe rõ từng tiếng chuông chùa Linh
Mụ thu không. Khói nhang bay nghi ngút, tôi vừa nhỗ cỏ vừa tỉ tê trò
chuyện cùng chồng: "Không biết có phải lần này là lần cuối em viếng mộ
anh hay không" Thôi thì sống khôn thác thiêng, anh hãy phù hộ cho em đi
đường bình an để đoàn tụ với con, để nuôi cháu nội."
Sáng hôm sau, vợ chồng nó đi làm và tôi thì trông cháu như thường lệ.
Lúc
dọn dẹp phòng khách, tôi chợt nhìn thấy tờ báo Việt ngữ dưới chiếc bàn
nhỏ mà thỉnh thoảng con tôi đem về để mẹ đọc giải trí. Trong tờ báo này
có mục tìm việc làm và có các gia đình tìm người giữ trẻ. Tôi ghi lại
những địa chỉ và số điện thoại cần thiết, gọi liên tiếp đến gia đình thứ
năm mới gặp được một cô người Huế, chồng ly dị hiện sống với hai con.
Tôi được ăn ở luôn trong nhà cô ấy, khi nào muốn về thăm con và cháu, cô
ta sẵn sàng đưa về thăm.
Nhưng khó khăn nhất vẫn là giây phút chia tay. Một buổi sáng chủ nhật, tôi đợi hai đứa ra phòng khách rồi lên tiếng:
"Sáng
nay sẽ có người đến đón mẹ về giúp trông nom nhà cửa và hai đứa trẻ. Đó
là cháu gái gọi mẹ bằng dì chứ mẹ không đi ở đợ với người dưng, hai con
cứ an tâm."
Thằng con trai chạy đến ôm chầm lấy
mẹ và khóc rấm rức như đứa trẻ lên ba: "Rõ ràng là con bất hiếu và bất
lực. Đến cuối cuộc đời mà mẹ vẫn hy sinh."
"Không con ạ, khi nào mẹ cũng hiễu con và đặt hạnh phúc của con lên trên hết, con ngoan của mẹ."
Tay
tôi vỗ nhẹ lên tấm lưng vạm vỡ của nó như ngày xưa tôi từng ru nó bằng
những câu ca dao trên chiếc võng đay cột ở chái nhà. Đứa con dâu mở tủ,
lấy ra hai bộ quần áo, ý chừng mới mua rồi đặt vào chiếc xách tay nhỏ
của tôi.
"Mẹ đem theo mấy cái này để mà thay đổi."
"Mẹ cảm ơn con."
Có
tiếng chuông reo ngoài cửa. Cô gái Huế xuất hiện, khuôn mặt phúc hậu và
theo lời dặn trước của tôi trên điện thoại, cô cất tiếng:
"Cháu chào Dì, chào hai em. Dì đưa cháu xách đồ dì cho."
Rồi quay sang hai đứa , cô nói tiếp:
"Hai
em đừng buồn. Thỉnh thoảng chị đưa dì về thăm. Nhà chị cũng ở gần đây."
Tôi vội vàng ôm hôn đứa cháu nội và như sợ nếu chậm trễ phút giây nào,
tôi không thể rời khỏi nơi đây, tôi theo gót cô gái ra cửa, không quay
đầu lại.
Nỗi buồn vẫn còn đó nhưng dù sao, hạnh
phúc mong manh của con tôi đã tạm thời hàn gắn. Đó là niềm an ủi duy
nhất của những ngày còn lại cuối đời tôi.
Lê Phạm Xuân Hồng, Ngày 10 tháng 6 năm 2000
No comments:
Post a Comment