Viện Ngôn Ngữ Học Trả Lời Chính Thức
Về Đề Xuất Cải Tiến Chữ Quốc Ngữ Của Bùi Hiền
GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp
Viện trưởng Viện Ngôn ngữ
học
CẢI CÁCH CHỮ QUỐC NGỮ,
CHUYỆN KHÔNG NÊN BÀN
NỮA
Tưởng
chuyện này đã êm rồi
(xã hội còn nhiều chuyện cần bàn hơn) nhưng hôm nay đọc những dòng giận
dữ của GS Trần Đình Sử, tôi thấy cần lên tiếng để ủng hộ GS Trần Đình
Sử, góp thêm tiếng nói bác bỏ đề nghị cải cách chữ Quốc ngữ của PGS Bùi
Hiền (thông qua Bản đề xuất của tác giả).
Những
điều tôi viết ra đây
cũng là ý kiến của Viện Ngôn ngữ học gửi lãnh đạo cấp trên (tháng
1/2018), nhân có chỉ đạo đề nghị Viện Ngôn ngữ học cho ý kiến về Bản đề
xuất cải cách chữ viết của PGS Bùi Hiền (một người mà trong quan hệ bình
thường hàng ngày tôi rất kính trọng).’
Hội
đồng khoa học của Viện
Ngôn ngữ học đã họp (mở rộng) thảo luận về đề nghị cải tiến chữ Quốc
ngữ của PGS.TS Bùi Hiển, sau đó đã tổng hợp các ý kiến để báo cáo lên
lãnh đạo cấp trên. Ý kiến của Hội đồng khoa học Viện Ngôn ngữ gồm có 3
phần:
-Vài nét về lịch sử phát triển
của chữ Quốc ngữ (bao gồm những điểm bất cập và những đề nghị cải tiến, sửa đổi trước đây)
-Những bất hợp lí trong đề
xuất cải tiến chữ quốc ngữ của PGS.TS Bùi Hiền
-Kết luận của Viện Ngôn ngữ
học
Với
tư cách là Viện trưởng,
tôi là người tổng hợp các ý kiến của Hội đồng khoa học mở rộng, tôi
cũng trao đổi ý kiến với một số chuyên gia về ngữ âm, chữ viết có uy tín
như GS Nguyễn Văn Lợi, PGS Hoàng Dũng …Vì đây là nội dung được gửi lên
lãnh đạo cấp trên (chắc không có ai là nhà ngôn
ngữ học) nên cách viết phải giản dị, tuy nhiên vẫn không tránh được một
số thuật ngữ chuyên môn. Sau đây là những nôi dung được tổng hợp:
1 Vài nét về lịch sử phát
triển của chữ Quốc ngữ
Chữ
Quốc ngữ được hình thành
trong khuynh hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương muốn Latin hóa các
chữ Á Đông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ. Quá trình xây dựng chữ
Quốc ngữ là một quá trình lâu dài, với sự góp sức của nhiều người, trong
đó có người Việt Nam.
Các
tài liệu cho thấy vào
thế kỉ 17, chữ Quốc ngữ đã có một diện mạo khá ổn định, gắn với việc
xuất bản cuốn Từ điển Việt – Bồ Đào Nha – Latin (Dictionarium
Annamaticum Lusitinum et Latinum) của linh mục Alexandre de Rhodes tại
Roma, năm 1651.
Có
thể nói, thế kỷ 17 với
sự ra đời của Từ điển Việt – Bồ Đào Nha – Latin (Dictionarium
Annamaticum Lusitinum et Latinum) của Alexandre de Rhodes đã đánh dấu
diện mạo hiện đại của chữ Quốc ngữ. Thế kỷ 18, 19, chữ Quốc ngữ tiếp tục
hoàn thiện và có hình thức như ngày nay.
Chữ
Quốc ngữ là loại chữ ghi
âm tương đối khoa học. Tuy nhiên nó vẫn có nhiều điểm không hoàn hảo
như tất cả bộ chữ ghi âm khác. Ở diện mạo hiện nay, chữ Quốc ngữ vẫn tồn
tại một số nhược điểm sau đây:
–
Cùng một âm nhưng được ghi
bằng những con chữ khác nhau. Ví dụ, 3 chữ cái “c”, “k” và “q” đều được
dùng để ghi âm /k/, chữ “y” và “i” đều được dùng để ghi âm /i/;
– Âm đệm có lúc ghi là “u”,
có lúc ghi là “o”;
– Các nguyên âm đôi có cách
ghi lưỡng khả, phụ thuộc vào vị trí của nguyên âm đôi trong âm tiết, ví dụ: iê/yê/ia/ya, ươ/ưa, uô/ua;
– Vị trí đánh dấu thanh không
theo nguyên tắc nhất quán: lúc thì đánh vào âm chính, lúc thì đánh ở giữa âm tiết cho cân đối.
Đây chính là lí do trong một
thời gian dài, liên tục có những ý kiến cho rằng cần phải cải tiến chữ Quốc ngữ trên nhiều phương diện khác nhau.
Năm 1902, một Uỷ ban cải cách
chữ Quốc ngữ đã được thành lập (do Jean Nicholas Cheon đứng đầu).
Năm
1956, ở Miền Nam, Uỷ ban
Ngôn ngữ cũng đưa ra đề nghị cải tiến chữ Quốc ngữ; năm 1973 Uỷ ban
Điển chế Văn tự cũng ra đời. Ở Miền Bắc, Hội thảo Cải tiến Chữ Quốc ngữ
được tổ chức năm 1960.
Từ
đó đến nay đã có nhiều
hội thảo khoa học tiếp tục đề cập đến chuyện cải tiến chữ Quốc ngữ.
Gần đây nhất, trong ba cuộc hội thảo lớn về chữ Quốc ngữ (năm 2015 tại
Phú Yên, năm 2016 tại Bình Định và tại Quảng Nam) đều có những tham luận
nói đến những nhược điểm và ý tưởng cải
tiến chữ Quốc ngữ.
Như
vậy, có thể khẳng định
rằng, vấn đề cải cách chữ quốc ngữ đã từng được bàn đến nhiều lần, trên
nhiều phương diện và đề xuất của PGS. TS Bùi Hiền không phải là một ý
kiến mới trong giới ngôn ngữ học.
Tuy
nhiên, ngôn ngữ nói chung
và chữ viết nói riêng là một sản phẩm của cộng đồng và mang tính quy
ước. Chính cộng đồng sẽ quyết định sự phát triển của chữ viết, chứ nó
khó lòng bị chi phối bởi ý chí, nguyện vọng hay đề xuất của một cá nhân
hoặc bị cưỡng bách thực thi bởi một mệnh lệnh
hành chính. Chính vì thế, cho dù đã có những Hội nghị về cải tiến chữ
Quốc ngữ với hàng loạt các đề xuất của các nhà ngôn ngữ học nhưng tất cả
đều không được áp dụng vào thực tế.
Cho
đến nay, đại đa số các
ý kiến đều cho rằng, mặc dù có những nhược điểm như trên, chữ Quốc ngữ
vẫn là một loại chữ ghi âm rất tốt, và hiện nay vẫn đang thực hiện tốt
chức năng là chữ viết thống nhất của nước Việt Nam, dùng để ghi lại
tiếng Việt vì những lí do sau đây:
Thứ
nhất, chữ Quốc ngữ có
đủ khả năng để ghi lại toàn bộ các âm có thể có trong tiếng Việt hiện
đại. Không có một âm nào trong tiếng Việt lại không thể dùng chữ Quốc
ngữ ghi lại.
Thứ hai, chữ Quốc ngữ đã phát
triển đến giai đoạn ổn định, được cả cộng đồng chấp nhận và sử dụng một cách tự nhiên, mang tính quy ước và phổ cập.
Thứ
ba, chữ viết của một ngôn
ngữ không đồng nhất với ký hiệu ngữ âm quốc tế, nó còn ẩn chứa cả văn
hoá nữa. Cho nên, không nhất thiết phải áp dụng nguyên tắc “một âm vị
ghi bằng một kí tự và ngược lại”. Về nguyên tắc, ngôn ngữ (âm thanh)
luôn biến đổi theo thời gian, trong khi chữ viết
lại cố định, cho nên qua thời gian bao giờ cũng có sự vênh nhau giữa âm
vị cần ghi và ký tự dùng để ghi.
Dĩ
nhiên, nhằm giúp chữ Quốc
ngữ thực hiện tốt chức năng của mình, giới ngôn ngữ học hiện đang rất
quan tâm đến vấn đề chuẩn hóa chính tả (quy chuẩn cách viết), cách viết
tên riêng gốc tiếng nước ngoài (đề nguyên dạng, phiên âm hay chuyển tự),
tên riêng gốc ngôn ngữ các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam. Đây là những vấn đề mà việc giải quyết một cách triệt để
đòi hỏi cần phải ban hành Luật Ngôn ngữ ở Việt Nam.
2. Những bất hợp lí trong
đề xuất cải tiến chữ quốc ngữ của PGS.TS Bùi Hiền
2.1.Về mặt pháp lí
PGS.TS
Bùi Hiền coi tiếng
Việt là tiếng Kinh: “Tạm thống nhất lấy tiếng Hà Nội làm cơ sở ngữ âm
cho việc xác định bảng chữ cái tiếng Việt (tiếng Kinh)…(tr.3 của Bản đề
xuất)”. Điều này vi phạm nguyên tắc bình đẳng dân tộc bởi Hiến pháp của
Nhà nước CHXHCN Việt Nam coi tiếng Việt là
Ngôn ngữ Quốc gia có nghĩa là của chung toàn dân tộc (Nation) Việt Nam
chứ không chỉ của một tộc người. Ngoài ra, về mặt pháp lí, hiện nay chưa
có văn bản chính thức nào của Nhà nước quy định tiếng Hà Nội là tiếng
chuẩn.
2.2.Về mặt khoa học
Phương
án đề xuất Cải tiến
chữ quốc ngữ mà PGS.TS Bùi hiền nêu ra rất lộn xộn, chắp vá và hoàn
toàn không mang tính khoa học. Điều này thể hiện ở các điểm dưới đây:
–
Thứ nhất, đã là nghiên cứu
khoa học không thể có cách diễn đạt mơ hồ như ” Tạm thống nhất ..”.
Việc xác định tiếng nói vùng nào của Việt Nam làm chuẩn chính âm hiện
chưa đươc khẳng định.
–
Thứ hai, PGS.TS Bùi Hiền
đã có những nhầm lẫn cơ bản về mặt ngôn ngữ học. Trong tiếng Việt,
tiếng Hà Nội không phải là tiếng có thể đại diện cho một diện mạo ngữ âm
trung thực và khách quan của tiếng Việt. Trên thực tế, tiếng Việt có
nhiều vùng phương ngữ, thổ ngữ khác nhau với
các biến thể đặc điểm ngữ âm, từ vựng khác nhau. Như vậy, nếu chỉ dựa
vào hệ thống ngữ âm tiếng Hà Nội để làm cơ sở cải tiến chữ viết thì
không phản ánh trung thực và đầy đủ ngữ âm tiếng Việt. Đề nghị của
PGS.TS Bùi Hiền sẽ làm tăng vọt số lượng các từ đồng
âm, đồng tự, gây khó khăn cho việc đọc hiểu văn bản.
–
Thứ ba, PGS.TS Bùi Hiền
không phân biệt được các khái niệm ngữ âm – âm vị học, không phân biệt
được âm và chữ. Các con chữ mà ông đưa ra không liên quan gì tới đặc
điểm ngữ âm của nó.
Ông
chưa nhận diện đầy đủ
về hệ thống ngữ âm – âm vị học tiếng Việt. Bảng 16 nguyên âm được đề
cập trong phần 2 của Bản đề xuất là không có cơ sở khoa học khi cho rằng
có các âm vị /e, ɔ, o/ dài trong đối lập với /e, ɔ, o/ ngắn. Nhiều ví
dụ dẫn ra khiến người đọc băn khoăn về sự tồn
tại của nó trong tiếng Việt hay tính phổ biến của nó. Tác giả liệt kê
âm vị /y/ trong đối lập với /i/ cũng hoàn toàn không có cơ sở khi không
đưa được các cặp đối lập tối thiểu âm vị học mà lại dẫn ra các biến thể
chữ viết “ti”~ “ty”.
Điều
này còn được thể hiện
khi tác giả xử lí trường hợp nguyên âm đôi /uo/ và tổ hợp bán nguyên âm
/w/ + âm chính /o/ giống nhau (trường hợp “cuốc” và “quốc” được thống
nhất ghi thành “kuok”, hay “cua” và “qua” được thống nhất ghi thành
“kuô” theo phương án của tác giả). Ví dụ này cho
thấy ông đã đi ngược lại với nguyên tắc “một chữ ghi một âm và ngược
lại” của chính mình.
Bên
cạnh đó, cách trình bày
của ông trong Bản đề xuất cũng thể hiện sự thiếu hiểu biết về cách kí
hiệu phiên âm quốc tế: phiên âm âm vị học được quy định chung của thế
giới là trong gạch chéo /…/, và phiên âm ngữ âm học được quy định chung
của thế giới là trong móc vuông […]. Nếu đã
không hiểu được các khái niệm căn bản nhất (âm tố, âm vị, ngữ âm học,
âm vị học,…) thì sao có thể bàn tới việc xây dựng (hay cải tiến, cũng
như sử dụng) chữ viết cho ngôn ngữ của một cộng đồng dân tộc?
–
Thứ tư, PGS.TS Bùi Hiền
không có sự hiểu biết về từ nguyên học và ngữ âm lịch sử tiếng Việt.
Các chữ cái c-k-q tuy dùng để ghi cùng một âm vị /k/, chữ cái d, gi, r
để ghi cùng một âm vị /z/, ch-tr để ghi cùng một âm vị /c/ trên bình
diện đồng đại (nếu theo hệ thống ngữ âm tiếng Hà
Nội) song về lịch sử chúng ghi các phụ âm khác nhau trong tiếng Việt ở
thời kì xuất hiện chữ Quốc ngữ (Thế kỉ 17). Sở dĩ các linh mục dùng chữ d
để ghi cái âm /z/ thời đó vì khi đó đối với các từ ghi “da”, “dì” trong
tiếng Việt thì cái con chữ “d “này được
dùng ghi một âm có đặc điểm về phát âm gần với phụ âm được ghi “d”
trong nhiều ngôn ngữ ở châu Âu. Việc nhập ch- tr và ghi bằng con chữ “c”
cũng vậy
–
Thứ năm, đề xuất của PGS.TS
Bùi Hiền đi ngược lại hoàn toàn xu hướng chung của các nước sử dụng tự
dạng Latin. Không có bất kì bộ chữ có tự dạng Latin nào sử dụng chữ cái
“w” để ghi âm vị /ŋ/. Đề nghị dùng “w” thay cho “ng” sẽ phá vỡ tính hệ
thống trong quan hệ giữa âm và chữ, khiến
người học khó học, khó nhớ. Cách làm này khiến người nước ngoài vốn
quen với các hệ chữ viết tự dạng Latin khó tiếp nhận chữ Quốc ngữ, vì
thế gây khó khăn cho việc phổ biến tiếng Việt, chữ Việt (chữ Quốc ngữ)
ra quốc tế.
Tương
tự, không có bộ chữ
có tự dạng Latin nào sử dụng con chữ “q” để ghi âm vị /tʰ/. Bên cạnh
đó, việc tạo nên một con chữ mới để thể hiện phụ âm /ɲ/, không thể gõ
trên bàn phím máy tính gây khó khăn lớn trong việc sử dụng trong thời
đại công nghệ thông tin hiện nay. Điều này vi phạm
nguyên tắc tiện dụng trong xây dựng chữ viết.
–
Thứ sáu, tác giả còn đề
xuất thêm tới 04 con chữ cái mới trong phương án cải tiến của mình.
Điều này cho thấy hệ chữ viết của ông không tiết kiệm, gọn nhẹ hơn so
với phương án cũ.
–
Thứ bảy, học tiếng Việt,
chữ Việt là quyền lợi và trách nhiệm của mọi công dân Việt Nam thuộc
các dân tộc khác nhau. Đề nghị cải tiến chữ Quốc ngữ của PGS.TS Bùi Hiền
làm cho chữ Quốc ngữ trở nên khác xa chữ viết của một số ngôn ngữ dân
tộc thiểu số (phần lớn dựa trên tự dạng Latin),
vì thế gây cho khăn cho người dân tộc thiểu số tiếp thu chữ Quốc ngữ.
2.3. Về mặt thực tiễn
Nếu
cải tiến chữ Quốc ngữ
theo đề xuất của PGS.TS Bùi Hiền sẽ làm vô hiệu hóa một kho văn liệu
khổng lồ với các ấn phẩm được viết bằng chữ Quốc ngữ, làm đứt gẫy sự
liên tục văn hóa của cả một dân tộc. Nếu muốn lưu giữ và truyền tải khối
tri thức, văn hóa của dân tộc cho các thế hệ
sau, chúng ta sẽ phải tổ chức in ấn, chế bản lại. Đây là một việc làm
cực kì tốn kém. Không chỉ có thế, sự thay đổi này còn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến toàn bộ các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh… do
thay đổi toàn bộ hệ thống văn bản, giấy tờ,
dữ liệu hiện hành đang được công nhận trên toàn thế giới.
Với
tư cách là một loại chữ
viết ghi lại ngôn ngữ dân tộc, trải qua những phát triển lịch sử, chữ
Quốc ngữ ngày nay đã trở thành một tài sản văn hóa vô cùng quý giá của
người Việt. Bản kiến nghị của PGS.TS Bùi Hiền chỉ là mong muốn
của một cá nhân, hoàn toàn không xuất phát
từ nhu cầu của xã hội. Chúng ta chưa có những điều tra về
nguyện vọng của xã hội về vấn đề này nhưng những phản ứng
của cộng đồng trên các phương tiện thông tin đại chúng thời gian
qua đã cho thấy điều đó. Chữ viết, sau khi
được xã hội thừa nhận là tài sản chung của mọi người. Xã
hội chưa có nhu cầu thay đổi thì cá nhân không thể tùy tiện đề
xuất thay đổi, đặc biệt là những đề xuất đó lại rất thiếu cơ
sở khoa học như đã phân tích ở trên.
Mặt
khác, bản thân hệ thống
chữ Quốc ngữ hiện hành vẫn đang thực hiện rất tốt vai trò
của mình trong đời sống của xã hội nước ta. Mặc dù có một
số bất hợp lí nhưng những bất hợp lí này là có thể chấp
nhận được và không cản trở đến quá trình
giao tiếp bằng tiếng Việt. Vì vậy, bất cứ một sự cải tiến nào
cũng sẽ làm đảo lộn mọi lĩnh vực trong xã hội.
3. Kết luận
Đề
xuất cải tiến chữ Quốc
ngữ của PGS.TS Bùi Hiền như đã phân tích là ý kiến của một cá nhân có
thể có xuất phát từ mục đích tốt nhưng lại thiếu kiến thức chuyên môn;
hiểu biết chưa toàn diện về ngữ âm học, ký tự học nên thiếu tính khoa
học và thực tiễn, không có tính khả thi. Trong
tình hình chữ Quốc ngữ đang vận hành hiệu quả như hiện nay, Viện Ngôn
ngữ học cho rằng hoàn toàn không nên và không cần thiết có bất kì cải
tiến nào đối với chữ Quốc ngữ.
Nguồn: Fb Trần Huy Mẫn
Website: Tiếng Thông Reo
No comments:
Post a Comment