Đọc “Bây Giờ
Là Mùa Thu, Tôi Đi Tìm Dĩ Vãng”, nhà văn Văn Quang viết, trong lần chia
tay giữa ông và ông bà Anh Ngọc, có đoạn “Trước khi chia tay, đứng trên
vỉa hè, ông ôm vai tôi nói lớn ‘ Bây
giờ ở đây chỉ còn mình mầy’... .
Cái tình thân 60 năm đọng lại ở đó, sâu lắng ở đó ...”. Lời nói chia tay của ông Anh Ngọc với ông Văn
Quang nghe như là lời than, như một tiếng thở dài.
“Ở đây” là đất
nước Việt Nam của chúng tôi; ở đó ông Anh Ngọc, ông Văn Quang và bạn
bè, những người thân của hai ông đã sống.
Ở đó tôi đã lớn lên, bạn bè tôi, anh em đồng đội tôi đã sinh
ra, đã lớn lên, đã cắp sách tới trường, đã cầm súng chiến đấu bảo
vệ. Và bây giờ mọi người phải ra
đi, buộc lòng phải lìa xa phần đất được gọi là quê hương. Chỉ ông Văn Quang chọn lựa ở lại, để
ông Anh Ngọc phải thốt lên: “Chỉ còn mình mầy”, nghe rỏ là một vẻ
sót xa, một nổi ngậm ngùi, như một tiếng kêu than. Một sự mất mát lớn lao, bàng bạc mà thiêng
liêng trong tâm hồn người đi cũng như người ở lại. Có sự mất mát nào lớn hơn, buồn hơn
mất nước, mất quê hương xứ sở mình?
Tôi đang ở đây, xa cách nơi hai người chia tay
nhau bởi một đại dương mênh mông. Ở
tuổi về chiều của đời mình tôi tin rằng, rồi một ngày, sẽ có một
ngày nằm lại trên đất nước xa quê mình nửa vòng trái đất. Có một khoảng thời gian nào đó, để tâm
hồn mình lắng đọng lại, theo gót ông Văn Quang đi tìm dĩ vãng. Trở về với tuổi thơ. Bắt đầu từ cái tuổi ăn quà trước cổng
trường, chơi đùa, nghịch ngợm. Hay
những lần bắt dế, đá banh, thả diều trên cánh đồng khô gốc rạ, lộng
gió trước nhà.
Cuộc sống của tuổi
thơ tôi êm đềm trôi, cho tới một ngày chứng kiến hơn triệu đồng bào
rời bỏ quê hương từ Miền Bắc di cư vào Nam sinh sống. Chúng tôi có thêm những người bạn mới,
cùng nhau đến trường, chia sẻ nhau cái không gian bát ngát của Miền
Nam thanh bình, êm ả. Những lời
chuyện kể từ một miền xa xôi trên đất nước Việt Nam của chúng tôi,
từ mùa thu lá rụng tới mùa đông gió bấc lạnh lùng tạo cho tôi sự
thích thú về địa dư, thổ nhưỡng. Rồi
tôi được nghe kể về chính sách khắc nghiệt của của chế độ cộng sản
và đó chính là lý do họ phải rời bỏ quê hương xứ sở; tôi nghe với
một chút thờ ơ, một thoáng nghi ngờ.
Bởi vì tôi tin vào tình người, tình hàng xóm, tình đồng bào,
tình dân tộc. Tôi tin vào luân lý
đạo đức mà tiền nhân đã truyền dạy ... .
Và những điều tôi nghe kể vượt xa ngoài sự hình dung tưởng
tượng của tuổi thơ tôi.
Lớn lên trong
nền giáo dục nhân bản, tôi được học những bài học “Công Dân Giáo
Dục”. Tôi học lịch sử nước tôi có
Trần Bình Trọng khẳng khái trả lời: “Thà làm quỉ nước Nam còn hơn
làm vương đất Bắc”. Có Lê Lợi mười
năm ròng rả đánh đuổi quân Minh với Bình Ngô Đại Cáo “việc nhân nghĩa
cốt ở an dân ...”.
Tôi vẫn tới
trường, trong suốt những năm dài ở trường học, dù đất nước tôi đang
bị phân chia hai miền Nam Bắc với hai chế độ Tự do và Cộng Sản. Dù chiến tranh đang hiện hữu trên quê
hương tôi, nhưng tôi vẫn được truyền đạt về đạo đức, về giáo dục công
dân để làm người tốt trong xã hội.
Hận thù không hề được nhắc tới bên trong ngưỡng cửa của học
đường. Giáo Dục Nhân Bản chỉ đề
cao đạo đức và trách nhiệm công dân, chúng tôi lớn lên trong nền giáo
dục đó.
Tuổi học trò
của chúng tôi được tô điễm bằng những lời thơ êm ái ngọt ngào, những
câu hò đậm tình dân tộc, hay những bài hát ca tụng vẻ đẹp của quê
hương đất nước. Chúng tôi lớn lên
không gợn chút hận thù mà lớn lên với ngọt ngào của lời ru, êm đềm của
câu hát. Chúng tôi lớn lên trong
tình thương yêu đùm bọc, sẻ chia, tương thân tương trợ. Chúng tôi lớn lên bằng tình người, tình
đồng bào, tình dân tộc.
Sách báo, phim
truyện vẫn chưa bổ sung cho trí óc đơn sơ tôi chút nào về hiểu biết
chính trị; cho đến một ngày ở quê tôi, phong trào “đồng khởi” bắt
đầu. Khua thùng đánh trống, truyền
đơn, biểu ngữ ... .
Phong trào đồng
khởi được phát động bằng: cắt cổ, mổ bụng, “bịt mắt cho mò tôm”,
hay đập đầu bằng búa ... với những bản án viết nghuệch ngoạt, với
những tội lổi vu vơ, ngụy tạo.
Trong trí óc đơn sơ của tôi nảy sinh ra những câu hỏi “Ai”, ai đã
làm những điều nầy? Họ đã nhân
danh cái gì để họ giết người?
Điều gì đã biến họ từ là người nông dân chân chất thật thà
hôm qua để trở thành người tàn ác hôm nay? Ai xui khiến, ai ra lệnh cho họ? Giết người nhằm mục đích gì?
Thực tế cho tôi
thấy cuộc sống yên lành của người dân, trong đó có tôi, gia đình tôi,
họ hàng tôi bị xáo trộn đến tận cùng, bất ổn thường xuyên đe dọa
cuộc sống của người dân từ thôn quê tới thành thị.
Giựt mìn, ám
sát, pháo kích, đào đường, phá cầu nhằm gây xáo trộn kinh tế, tạo
bất ổn trong xã hội. Đời sống
người dân càng ngày càng khó khăn trong phong trào “giải phóng” mà
những người phát động đang giấu mặt tận đâu đâu.
Chiến tranh
ngày càng lan rộng, chết chóc, thương tật, sự nguy hiễm càng đè nặng
lên người dân bởi sự “giải phóng” của những người cộng sản. Những vết thương trên thân thể và trong
tâm hồn những người dân chân chất hiền hoà với ruộng đồng sông rạch
Miền Nam ngày càng nhiều, càng chồng chất. Sự sợ hãi bao trùm lên Miền Nam từ thôn
quê tới thị thành, từ người lớn đến trẻ thơ. Cộng sản đã dùng khủng bố để tạo nên sự sợ hãi, và
dùng sự sợ hãi như là phương cách để tiến hành chiến tranh, họ đặt
tên cho hành động khủng bố là “bạo lực cách mạng”, và kêu gọi bạo
lực bằng thái độ “triệt để”.
Chiến tranh
thực sự có mặt trên quê hương tôi, chúng tôi đi vào đời sống quân ngũ
như là trách nhiệm của một công dân phải bảo vệ phần đất mà mình
sinh sống, bảo vệ gia đình mình và bảo vệ thể chế tự do mà chúng
tôi đang thụ hưởng. Cho tới lúc đã
thực sự là người lính, trong đầu chúng tôi vẫn không thoáng chút hận
thù. Tôi tin rằng các đồng đội tôi đi
vào chiến trận chỉ với hoài bảo bảo vệ phần đất còn lại của quê
hương đất nước, bảo vệ thể chế Tự Do và trước hết bảo vệ sự sống còn
của mình và gia đình mình.
Trận mạc không
làm vơi đi niềm tin của chúng tôi, và không xây dựng nên hận thù trong lòng
người lính Việt Nam Cộng Hòa.
Chiến tranh có máu xương, chết chóc, có đau thương, khổ lụy
nhưng không có hận thù trong lòng người lính chiến đấu để bảo
vệ. Bảo vệ người dân và bảo vệ
quê hương đất nước. Rời cuộc sống
ấm êm để đi vào cuộc đời quân ngũ hiễm nguy, gian khổ xuất phát từ
cái tình. Tình người, tình dân tộc, tình yêu quê
hương xóm làng.
Hình ảnh người
lính Việt Nam Cộng Hòa đốt điếu thuốc gắn lên môi người tù binh cộng
sản đang bị trói đã nói lên tính nhân bản và tình cảm của những
người có cùng tiếng nói, cùng màu da và lớn lên trên cùng dải đất
Việt Nam. Trước cảnh đổ nát, hoang
tàn giữa thành phố Sài Gòn trong ngày Tết Mậu Thân, người lính Biệt
Động Quân mở cái bánh tét đút cho tù binh cộng sản ăn, từ tốn nhẫn
nại chờ từ miếng nuốt với vẻ mặt ôn nhu trầm tĩnh hiền hòa. Hành động nầy không do lịnh từ cấp trên
mà xuất phát từ cái tình trong lòng người quân nhân Biệt Động Quân
nầy. Và tuyệt nhiên, không là hình
ảnh nguỵ tạo để tuyên truyền, lừa mị.
Tình người, tình đồng bào vẫn hiện hữu, được thể hiện qua
cách đối xữ với những người trước đó mấy phút đã bắn xối xả về
phía mình đã nói lên nền tảng căn bản đạo đức của những người đã lớn
lên trong xã hội tự do.
Cho dù nền tự
do tại Miền Nam chỉ được xây dựng trong vòng hai mươi năm. Hai mươi năm xây dựng nên thể chế dân
chủ, hai mươi năm xây dựng nên đạo đức trong lòng người. Hai mươi năm xây dựng nên tinh thần trách
nhiệm, hai mươi năm tạo nên tình người, yêu thương và đùm bọc. Trong hai mươi năm ngắn ngủi xây dựng thể
chế Tự Do và phát triển kinh tế song song với cuộc đấu tranh với kẻ
thù gian xảo, tàn ác đang thi hành sứ mạng với cộng sản quốc tế. Hai mươi năm xây dựng và phát triễn từ
tinh thần đến vật chất tại Miền Nam, đã đưa nước Việt Nam Cộng Hòa
ngang hàng với các nước lân bang như Thái Lan,Đại Hàn, Mã Lai, Đài
Loan, Singapore ... . Sài Gòn, một
thời được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, là mơ ước của Thủ Tướng
Singapore Lý Quang Diệu trong thập niên sáu mươi đã chứng thật cho sự
thành công của chế độ Tư Do và Dân Chủ của Việt Nam Cộng Hòa trong
hai mươi năm xây dựng và bảo vệ.
Cuộc chiến
tranh kết thúc có bên thắng, bên thua.
Chúng tôi là người thua trong trận chiến hai mươi năm mà đất
nước và người dân trên quê hương tôi đã phải gánh chịu. Trong muôn ngàn nguyên nhân dẫn tới sự
thất bại của Miền Nam, trong đó có một nguyên nhân là cái tình,
chúng tôi đã chiến đấu trong tình người, tình dân tộc, tình đồng bào
và chúng tôi đã không chiến đấu bằng bạo lực, bằng hận thù.
Thua trận, là
tù binh cho những người cộng sản Việt Nam, bị đối xữ thù hận, tàn
ác để trả thù. Chúng tôi vượt qua
được những gian truân nghiệt ngã, thù hận đó bằng cái tình, tình
người, tình đồng đội, đồng cảnh, tình đồng bào.
Thắng, thua,
hậu quả của cuộc chiến tranh tùy thuộc vào phương cách tiến hành và
mục đích của cuộc chiến tranh đó.
Cuộc chiến
tranh mà người cộng sản đã phát động tại Việt Nam là chiến tranh
nhằm mục đích cướp đoạt và phục vụ cho chủ thuyết cộng sản và thi
hành mệnh lệnh của các lãnh tụ cộng sản Quốc Tế, “đánh Miền Nam
là đánh cho Liên Sô, cho Trung Quốc”.
Để che dấu cho
mục đích phục vụ cho học thuyết phi dân tộc, phi tổ quốc; người cộng
sản luôn luôn tìm cách lừa bịp, dối trá, dùng nhân dân làm bình phong
cho mọi hành vi độc ác gian xảo của họ.
Để che dấu cho mục đích cướp đoạt, công sản dùng chiêu bài “giải
phóng”, giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Họ kêu gọi “hận thù giai cấp” để tiến
hành chiến tranh. Để đạt được tham
vọng, họ lại ngụy biện, lập luận “cứu cánh biện minh cho phương
tiện”. Cho dù phương tiện của họ
là xương máu hay sinh mạng của hàng triệu “nhân dân” mà họ nhân danh.
Sau khi chiếm
đoạt được Miền Nam, là người thắng trận họ đã chẳng xoa dịu, hàn
gắn vết thương chiến tranh. Người
cộng sản đã không nhìn về tương lai để xây dựng quốc gia dân tộc mà
họ quay nhìn về quá khứ để đào sâu thù hận. Các biện pháp cải tạo, kinh tế mới,
đổi tiền, đánh tư sản, cải tạo công thương nghiệp, công tư hợp doanh,
quốc doanh, quốc hữu hóa,.... chỉ là những hành động cướp đoạt tài
sản của người dân Miền Nam bằng những thủ đoạn gian manh, quỉ quyệt
của bọn người tham tàn và bạo ngược.
Để củng cố
địa vị và bảo vệ quyền lợi họ dùng bạo lực và khủng bố tạo nên
sợ hãi, gây xáo trộn trong xã hội, tạo nên nền kinh tế bất ổn, khiến
đời sống người dân càng ngày càng khó khăn. Chính sách bưng bít, lừa đảo, dối trá,
bạo lực đàn áp nhằm mục đích tạo nên thói quen sống chụp giựt, tham
lợi trước mắt, mánh mung, chia rẻ, ích kỷ, dối trá, vô cảm, độc ác,
bất lương, khoa trương, hào nhoáng, ganh tỵ, rình rập, dò xét ... .
Cùng lúc cộng
sản thiết lập nên nền giáo dục xa rời cội nguồn dân tộc, mất gốc,
lai căng, vọng ngoại, yếu đuối, chạy theo những điều xấu, đua đòi,
mất khả năng hướng thiện. Nền giáo
dục nhồi sọ, thiếu nhân bản làm suy tàn nhuệ khí dân tộc, hủy hoại
tinh thần yêu nước, phá nát tinh thần đoàn kết, làm suy đồi đạo đức,
làm băng hoại tình người, tình dân tộc.
Người dân không
được bảo vệ bởi nhà cầm quyền và luật pháp. Cộng sản Việt Nam đã và đang cai trị
đất nước có hơn chín mươi triệu dân bằng nghị định, nghị quyết; ứng
xử luật pháp một cách tuỳ tiện, lấp liếm, bao che dung dưỡng thói hư
tật xấu, đàn áp bốc lột. Cộng
sản bất chấp luật pháp, công lý, lẽ phải; cai trị dân bằng công an, bằng côn đồ;
cướp giật bằng mọi hình thức đã đưa người dân lâm cảnh đói nghèo,
đưa quốc gia tụt hậu.
Cuộc sống đói
nghèo, không có niềm tin vào tương lai, có cảm tưởng sống trong môi
trường thù nghịch, không được bảo vệ bởi pháp luật, công lý; bị ức
chế, dồn nén. Người dân luôn sống
trong hoang mang, trong sợ hãi.
Để thích ứng
với điều kiện cay nghiệt của xã hội hỗn loạn và để sống còn người
dân phải vùng vẫy, phải tranh đấu.
Bản năng được vận dụng để tồn tại. Chính môi trường sống đã tiêu diệt cảm
xúc, tình cảm, đã bào mòn lý trí, đạo đức.
Lịch sử, Địa
dư và Chính trị cho ta câu trả lời rất rỏ tại sao có những quốc gia
ai cũng muốn tìm đến và có những đất nước ai cũng muốn ra đi. Và điều đau lòng là đất nước Việt Nam
của chúng tôi ai cũng muốn rời bỏ vì hậu quả của cuộc chiến tranh
mà người thắng trận là người cộng sản.
No comments:
Post a Comment