--------------------------------------------------------đỗ hữu phương.
Đại thi hào Nguyễn Du quê ở làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh.
Ông sinh năm 1765, mất năm 1820, thọ 55 mùa xuân. Thân phụ của ông là Nguyễn
Nghiễm làm quan đến chức tể tướng. Thân mẫu là bà Trần Thị Tần, quê ở xã Hoa
Thiều huyện Đông Ngàn xứ Kinh Bắc nay là tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Du là người học
sâu hiểu rộng, am tường cả Nho, Lão, Phật. Ông là bậc tài hoa hiếm có, từng
sống một cuộc đời phong lưu công tử nơi đất đế đô "Nghìn năm văn vật”.
Truyện Kiều gồm 3,254 câu thơ, là
một sáng tạo thiên tài của ông. Đây là một kiệt tác văn chương của lịch sử thơ
ca Việt Nam tự cổ chí kim. Tác phẩm của ông không chỉ là sự sáng tạo
tuyệt vời từ tác phẩm văn xuôi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân (Trung Quốc) thành 3,254 câu thơ lục bát mà còn là sự phong phú, đa dạng
về cách sử dụng từ ngữ trong thơ.
Tác phẩm Truyện Kiều đã được dịch ra
nhiều thứ tiếng phổ biến trên thế giới. Truyện Kiều cũng đã được rất nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình đánh giá cặn kẽ đến từng câu, từng chữ. Trong bài viết
ngắn này, tôi chỉ xin đề cập đến chữ "Xuân” mà đại thi hào Nguyễn Du dùng
trong Truyện Kiều.
Trong Truyện Kiều, tổng cộng có 55
câu Kiều có chữ "Xuân”. Mỗi chữ "Xuân” dùng trong Truyện Kiều cũng có
những ý nghĩa khác nhau, có thể tập trung vào các chủ đề sau:
Chữ "Xuân” dùng để tả cảnh mùa
xuân:
Ngày xuân con én đưa thoi (câu 39)
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu
mươi.
“Mỗi năm mỗi tuổi như đuổi xuân đi”. Nhưng để
bù lại, “mỗi năm mỗi tuổi” ta lại học thêm được ít nhiều kiến thức, lại khám
phá ra một chữ hay của văn chương. Năm mới, mùa xuân đã đến, thêm một mùa xuân
tươi thắm trong cuộc đời, tôi động bút từ trước lúc hoa đào phong nhụy viết về
chữ “Xuân” trong Kiều mà tôi tìm được như chợt quên đi, như chưa hề nghĩ đến
“cái già xồng xộc” đang đuổi sau mình, như không hề nhớ mỗi độ xuân về vẫn thường
nhẩm đọc câu thơ đầu Khúc giang để ngẫm
lại cái triết lý như sống gấp có từ ngàn xưa của Đỗ Phủ: “Nhất phiến hoa phi giảm
khước xuân” (mỗi cánh hoa rơi, giảm tí xuân)!
Câu chuyện được khơi mào vào một ngày xuân
năm trước, khi một bóng một đèn đọc lại truyện Kiều. Ấy là cái đoạn: sau phút bắt
gặp “tình yêu sét đánh”, Kim Trọng tìm cách dọn nhà tới gần nơi ở của nàng Kiều
để mong ”ngày ngày hằng trông” thấy nàng trong gang tấc. Và nàng cũng chẳng nỡ
phụ lòng chàng, đôi khi đã xuất hiện thấp thoáng sau bức “tường Đông”. Bằng sự
ma mãnh của con tim yêu đương muôn đời, một hôm, nàng đã tìm cách cài chiếc
thoa lên cành đào, cho chàng “bắt được” để nhân đó mà thố lộ tâm can. Và quả
nhiên ngày hôm sau, từ sớm tinh mơ mờ đất, chàng và nàng vịn vào cớ ấy để gặp
nhau. Kẻ vừa giả vờ “ra ý tìm tòi ngẩn ngơ” thì đã có người “lên tiếng xa đưa ướm
lòng”! Thật rõ ra là trò con trẻ! Nhưng sau những câu thơ tưởng như vờ vờ vịt vịt
đó hôm nay vẫn làm xốn xang bao trái tim già?
“ Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý
tìm tòi ngẩn ngơ.
Sinh đà có ý đợi
chờ,
Cách tường lên tiếng
xa đưa ướm lòng.
Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố
mà mong châu về?.
Tiếng Kiều nghe
lọt bên kia,
Ơn lòng quân tử
sá gì của rơi…
Thế là, họ chính thức “tán” nhau từ câu
311. Vì hai bên đều mắc lưới tình của nhau rồi, nên họ tán nhau tuy văn chương
mà xem ra vẫn “sát sạt” quá; bàn chuyện hệ trọng một đời người mà nhanh chóng
quá! Và đến câu 436 tức là chỉ đối đáp chừng ba chục câu thơ, mà ta thấy Kiều
đã nhận lời. Vì thế, tôi mới nảy ra cái băn khoăn là :Tại sao chỉ trong thoáng
chốc buổi sáng tinh sương ấy, mà trước câu Kiều tuyên bố “ghi tạc đá vàng” với
Kim, Nguyễn Du lại viết:
Lặng nghe lời nói như ru,
Chiều xuân dể khiến nét thu
ngại ngùng. (Câu 347, 348)
Viết như
thế thì hóa ra họ “tán” nhau từ giờ tập thể dục qua buổi trưa, vắt sang buổi
chiều? Trong truyện Kiều, ta cũng nên nhớ lại cái “sự xuân” này cũng đã được
Nguyễn Du dùng hình tượng “mưa gió nặng nề” để đặc biệt tả cái “đêm xuân” mà
nàng Kiều bị rơi vào tay họ Mã.
“ Tiếc thay một đóa trà
mi,
Con ong đã tỏ
đường đi lối về!
Một cơn mưa
gió nặng nề,
Thương gì đến
ngọc tiếc gì đến hương.
Đêm xuân một
giấc mơ màng,
Đuốc hoa để
đó mặc nàng nằm trơ !.(câu 847-852).”
Chữ
“đêm xuân” ở đây phải được hiểu là đêm của “sự xuân” chứ không phải là đêm mùa
xuân vì đây đang là “Đêm thu một khắc một
chày” (câu 805), cái đêm Kiều theo Mã Giám Sinh, mà trước lúc lên xe, nàng đã
lén cầm con dao, để “Dao này thì liệu với thân sau này”. Tuy nhiên, về hình thức,
về danh nghĩa, đây chính là đêm cưới gả “Sính nghi rẻ giá, nghênh hôn sẵn
ngày”, đêm “động phòng hoa chúc”, đêm của ái ân. Thế mà quái gở thay, sau “một
cơn mưa gió nặng nề” cục súc, thay vì bằng việc nâng giấc, chăm sóc Kiều, thì
đơn giản như gã thợ sơn tràng, đục xong cây gỗ để xỏ lạt xuôi bè, vừa “xong việc”,
Mã Giám Sinh biến mất trong đêm như một tên ăn trộm “Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm
trơ”! Phải hiểu theo nghĩa đặc biệt của chữ “xuân” trên đây, ta mới thấm hết nỗi
đau của nàng Kiều trong cái đêm kinh hoàng buồn tủi ấy, mới thấy bốn câu thơ
trên chữ “đêm xuân” chưa hẳn đã là tột cùng của nỗi đớn đau! Và ở đoạn thơ sau,
khi Kiều cầm dao tự sát, Tú bà vội thuốc thang đợi nàng tỉnh lại bắt đầu lừa đảo
tiếp: Xin lỗi con. Vì ta không biết con là con nhà lành nên mới đem con tới chốn
lầu xanh. Thôi thì:
Thuốc thang suốt một
ngày thâu,
Giấc mê nghe đã dàu dàu
vừa tan.
Tú bà chực sẵn bên
màn,
Lựa lời khuyên giải mơn
man gỡ dần.
Một người dể có mấy
thân,
Hoa xuân đương nhụy ngày
xuân còn dài.
Cũng là lỡ một lầm
hai,
Đá vàng sao nở ép nài
mưa mây.
Lỡ chân trót đã vào đây,
Khóa buồng
xuân để đợi ngày đào non.
Văn cảnh
này vẫn bắt ta phải hiểu chữ “xuân” theo nghĩa đặc biệt ấy: Ta hứa với con rồi
mà. Con cứ khóa cái “buồng xuân” ấy lại. Ta không bắt con tiếp khách nữa đâu.
Ta hứa sẽ tìm nơi tử tế để gả bán gầy dựng cho con:
“Người
còn thì của hãy còn,
Tìm nơi xứng
đáng là con cái nhà.”
Nhưng
Kiều đâu biết được cạm bẫy vẫn đợi nàng ở lầu Ngưng Bích.
“ Trước lầu ngưng bích khoá xuân,
“ Trước lầu ngưng bích khoá xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần
ở chung.”
Trúng
kế đà đao của tên sở khanh mặt mo, Kiều phải cúi đầu nhận làm đĩ trước mặt Tú
bà!. Đến nước này rồi mà chữ “xuân” của Nguyễn Du vẫn còn phát sinh ý nghĩa mới:
ngoài sự miêu tả cái đau đớn của Kiều trong những câu thơ trước, đến đây, chữ
“xuân” còn như ngầm chiêu tuyết cho phẩm cách của nàng trong những ngày đảo
điên “nước đục bụi trong” giữa “chốn lạc loài” không lối thoát. Ấy là câu thơ
Nguyễn Du miêu tả tâm trạng nàng Kiều “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” trong nhà
chứa:
….. “ Mặc người
mưa Sở mây Tần,
Những mình
nào biết có xuân là gì!”
Với
nghĩa ít gặp của chữ xuân trên đây, câu thơ đã miêu tả đầy đủ cái lạnh cảm đến
vô cảm, như trái với tự nhiên của Kiều.
Thì ra nếu các chữ “xuân” trên đây mang nghĩa “sự xuân”, “việc xuân” thì riêng ở
câu nầy chữ “xuân” lại là cái lạc thú của sự xuân: Kiều không hề tìm thấy chút
lạc thú nào ngay giửa nơi mà bản năng con người sẳn sàng thức dậy. Với chữ
“xuân” rất nhục thể này, Nguyễn Du đã xếp nàng Kiều đứng riêng một chỗ trong
xóm nguyệt hoa, thậm chí, còn đứng cao hơn chị em trong “Làm Đĩ” của Vũ Trọng
Phụng và cao hơn hẳn nổi Oan nghiệt của người đàn bà trong thơ Nguyễn Bính:
Mẹ con chỉ đợi hồng đôi
má,
Đợi một chiều xuân kia thắm
tươi.
Đỗ Hữu Phương.
No comments:
Post a Comment