Tình nghĩa Vợ Chồng khi kẻ mất, người còn - đời sống sẽ ra sao ?
Tràm Cà Mau.
Có thời ông Tư thường hay đùa, trêu chọc bạn bè rằng: “Đời người đàn ông có hai lần sung sướng: Lần cưới vợ, và lần vợ chết".
Bây
giờ vợ chết, ông mới ý thức được cái câu đùa nghịch đó vô cùng bậy bạ
và bất nhân, không nên nói. Có lẽ anh chàng nào nghĩ ra câu nầy là kẻ
độc thân, chưa có kinh nghiệm chết vợ. Ông ân hận và tự giận mình.
Sau
khi chết vợ, ông như mất hồn, lãng đãng, trí óc để trên mây. Nhiều lần
trên đường về nhà, ông đi lạc, lái xe qua khỏi nhà rồi mà không biết.
Ngày xưa, ông hay bực mình mỗi khi được bà nhắc nhở đi lối nầy, quẹo góc
kia, và bà cũng nổi nóng la nạt ông mỗi khi đi lạc đường. Bây giờ, mong
được nghe lời cáu kỉnh gây gổ đó, mà không có được. Ông thở dài và đau
nhói trong tim như có vật nhọn đâm vào. Không thể ngờ, vợ ông không còn
trên đời nầy nữa. Bây giờ bà nằm ngoài kia, nghĩa địa hoang lạnh âm u.
Không còn chầm chập kiểm soát từng hành động của ông để mà phê bình sửa
sai.
Mở cửa, bước vào nhà, ông nói lớn như khi bà còn sống:
“Em ơi! Anh đi làm về.”
Trước
đây, nếu không nghe tiếng trả lời, ông chạy vụt lên lầu tìm vợ. Bây
giờ, ông lẳng lặng đến thẳng bàn thờ, thắp ba cây nhang, lạy bốn lạy.
Ông thầm nghĩ, người ta chỉ lạy vợ khi vợ đã chết rồi, tại sao không ai
lạy vợ khi vợ còn sống? Dù có gây nên tội lỗi tầy đình, cũng không ai
lạy vợ bao giờ.
Ông
nhìn tấm hình màu, ảnh bán thân của bà, có nụ cười thật tươi, hai vành
môi uốn cong, đôi mắt sáng tinh anh, có ánh tinh nghịch. Ông thấy bà còn
đẹp lắm, nét đẹp dịu dàng. Thế mà bao nhiêu năm nay, ông không hề biết,
và chưa một lần nhìn ngắm kỹ cái nhan sắc của vợ. Sống lâu ngày bên
nhau, thấy nhau, nhưng quên nhìn ngắm, chỉ thấy hình thể tổng quát của
nhau. Cũng như nhiều ông có vợ thiếu nhan sắc, cũng không bao giờ biết
vợ họ xấu. Những ông lấy được vợ đẹp, lâu ngày, cũng chẳng còn biết vợ
mình là đẹp. Nhiều bà đi xâm môi, xâm lông mày xong, về nhà, ông chồng
cũng không hề biết có sự thay đổi trên mặt vợ.
Ông
Tư gieo mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức như
đứa bé đi về vắng mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng vắng.
Ông ước sao chuyện thật hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông thức
dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách móc một
điều gì đó như thường ngày, nhưng thà còn có những phiền hà của vợ, còn
hơn là nằm đây một mình.
Ông
đã khóc như thế cả tháng mấy nay, mỗi lần đi làm về. Bước vào căn nhà
vắng vẻ lạnh lẽo, không còn bóng dáng người vợ thương yêu, làm trái tim
ông se sắt, tâm trí ông trống rỗng mịt mờ. Nỗi đau cũng tan dần theo
giòng nước mắt, rồi ông thiếp đi trong một giấc ngủ buồn, ngắn. Khi thức
dậy, ông nhìn quanh, đâu đâu cũng có bóng dáng, có kỷ niệm với bà. Tất
cả đều còn đó. Vật dụng, đồ đạc của bà trước khi chết, vẫn còn để y chỗ
cũ, giữ nguyên trạng. Ông không muốn thay đổi chuyển dịch gì cả. Trên
bàn trang điểm, vẫn còn chiếc lược nằm nghiêng nghiêng, thỏi son dựng
đứng, hộp phấn, những chai thuốc bôi tay cho mịn da, tất cả đều không xê
dịch, không sắp xếp lại. Ông tưởng như hương tay của bà còn phảng phất
trên từng món vật dụng.
Mỗi
bữa ăn, không còn ai thúc hối, hò hét dục ông ngồi vào bàn ngay, sợ cơm
canh nguội lạnh. Bây giờ, ông tha hồ lần lửa, không tha thiết đến bữa
cơm. Có khi chín mười giờ mới bắt dầu ăn, qua loa cho xong, miệng nhạt
phèo. Thường ông để thêm chén dĩa đũa muỗng đầy đủ cho bà. Rồi thì thầm
mời vợ ăn, tưởng như bà còn sống, ngồi đối diện và cùng chia vui hạnh
phúc trong từng giây phút của thời gian. Ông có ảo tưởng như bà còn ngồi
đối diện, đang lắng nghe ông nói. Hôm nay bà làm biếng phê bình, không
mắng trách khi ông làm rơi cơm canh ra bàn. Với cách đó, ông tự dối
lòng, để có thể nuốt trôi những thức ăn, mà vì buồn chán, ông không còn
cảm được hương vị ngon ngọt.
Nhiều
khi thức giấc nửa đêm, vòng tay qua ôm vợ, ôm vào khoảng trống, ông
giật mình thảng thốt, chợt hỏi thầm, bà đi đâu rồi? Khi chợt nhớ bà
không còn nữa, nước mắt của ông chảy ra ướt cả gối. Có khi úp mặt khóc
rưng rức, khóc cho đã, cho trái tim mủn ra, và thân thể rã rời. Chiếc
giường trở thành trống trải, rộng thênh thang. Ông vẫn nằm phía riêng,
bên kia còn để trống, dành cho bà. Ông ôm hôn cái gối, mùi hương của bà
còn phảng phất gợi bao kỷ niệm của tháng ngày hạnh phúc bên nhau. Khi
không ngủ được, ông bật đèn nằm đọc sách, bây giờ ông không sợ ai cằn
nhằn, ngăn cấm đọc sách giữa đêm khuya. Trước đây, nhiều khi ông tha
thiết thèm đọc vài trang sách trước khi đi ngủ, mà vợ cứ cằn nhằn mãi,
làm ông mất đi cái thú vui nầy. Bây giờ ông nhận ra vì thương chồng, sợ
ngày hôm sau ông buồn ngủ, mệt, nên bà ngăn cản, bảo là chói mắt không
ngủ được.
Ông
tiếc, vợ chồng đã hay cãi vã những chuyện không đâu, chẳng liên quan gì
đến ai, mà làm mất đi cái vui, cái hòa hợp của gia đình. Có khi chỉ vì
tranh luận chuyện con khỉ bên Phi Châu, mà đi đến to tiếng, giận hờn,
khóc lóc, làm vợ chồng buồn giận nhau, dại dột như hai đứa trẻ con ngu
dại.
Tại
sao phải gắt gỏng, đâu có được gì, mà làm nhau buồn. Bây giờ muốn nói
lời ân hận, thì làm sao cho bà nghe được. Ông tự xét, ông là một con
người tệ mạt, thiếu hiểu biết. Khi có hạnh phúc trong tay thì không biết
trân trọng, để đến khi mất đi, mới ân hận, mà không còn kịp nữa.
Nếu
được làm lại, ông sẽ đối xử với bà tử tế hơn, nói nhiều những lời êm ái
dịu dàng. Sẽ không nổi giận khi bà làm chuyện ngang phè, sẽ nhường nhịn
bà nhiều hơn, và sẽ phớt tỉnh mỗi khi bị bà chê bai, mai miả. Nhất là
bày tỏ cái lòng ông, nói ông yêu thương bà, yêu thương lắm lắm. Đâu có
gì ngăn trở, mà những ngày bà còn sống, ông không nói được những điều
đó. Ông chợt nhớ có ngưòi viết rằng, vợ chồng phải đối xử như ngày mai
thức dậy sẽ không còn nhau. Vì chẳng ai được sống mãi, và cũng không
biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra trong giờ sắp tới, cho ngày hôm sau. Cuộc
đời con người vốn bấp bênh trong định mệnh.
Lấy
kinh nghiện đó, nhiều lần nói với những người bạn mà vợ chồng còn được
sống bên nhau, cho họ biết rằng, họ đang có hạnh phúc quý báu, họ nên
trân trọng giữ gìn, kẻo mai đây, khi chỉ còn chiếc bóng, thì tiếc thương
cũng đã muộn màng. Đa số có lắng nghe, và tin lời ông là đúng, nhưng họ
quên phứt ngay sau đó, và không thực hành điều hiểu biết.
Mẹ
ông mất trước vợ sáu tháng. Ông cũng buồn, thương. Nghĩ rằng mẹ già thì
chết là chuyện thường tình. Nhưng khi mất vợ, ông cảm thấy đau đớn và
buồn khổ vô cùng tận. Buồn hơn mất mẹ mười lần. Ông tự cảm thấy xấu hổ,
vì mất mẹ mà lại không đau buồn bằng vợ chết! Có phải ông đã thương vợ
hơn thương mẹ chăng? Có phải ông là đứa con bất hiếu? Ông cũng không
biết, và không so sánh được hai cái đau vì mất mát. Nhưng rõ ràng, ông
đã ngã gục khi chết vợ.
Có
khi quẩn trí, ông muốn chết theo bà. Sao cuộc sống vô vị quá chừng. Rồi
mai mốt cũng già, bệnh, đâu có thoát được cái chết. Chết bây giờ, nếu
còn linh hồn, thì còn gặp lại vợ ngay. Nhưng ông sực nhớ nhiều lần bà
nói không muốn gặp ông lại trong kiếp sau. Bà đâu có thù ghét ông mà nói
câu đó nhỉ. Nói chi cho ông đau lòng lúc nghe, và còn đau cả đến tận
bây giờ. Ông nghe nói, có một loài chim, khi một con chết đi, thì con
kia ngày đêm kêu thương, bỏ ăn bỏ ngủ, than gào cho đến chết. Chim còn
chung tình đến thế, mà ông thì còn sống, còn ăn, còn ngủ, còn đi làm,
còn giữ tiền bạc. Chẳng bằng được loài chim sao?
Trong
căn nhà nầy, đâu đâu cũng có dấu vết của bà. Mở tủ đựng ly chén ra, ông
đứng nhìn xem, bên trong sắp đặt thứ tự, gọn gàng. Có những thứ mà bây
giờ ông mới thấy, và không biết công dụng nó làm gì, khi nào thì dùng
đến. Bà đã mua sắm, sắp đặt cẩn thận. Ông cầm một cái ly, biết vật nầy
đã có bàn tay vợ đụng đến, ông ghé môi hôn, tưởng đang hôn bàn tay bà.
Ba bộ ấm pha trà xinh xắn, bà mang về trong dịp đi du lịch bên Nhật, để
cho ông thù tiếp bạn bè. Bà thương ông đến như vậy đó.
Hơn
cả chục chai rượu nho, rượu mạnh trong tủ kiếng, cũng do một tay bà
mua. Bà không biết uống, nhưng hễ nghe ai khen rượu ngon, rượu quý, thì
bà cũng cố mang về cho chồng một vài chai. Ông thường dặn nếu không biết
uống rượu thì đừng mua, vì khẩu vị của mỗi người khác nhau. Cũng như
mình khen mắm nêm thơm ngon, nhưng cho Tây ăn, thì họ bịt mũi mà oẹ ra.
Bây giờ đứng đây, đưa tay sờ vào những chai rượu màu nâu sẫm, lòng ông
đầy ân hận, đáng ra lúc đó, ông phải nói những lời tử tế ngọt ngào cám
ơn, và bày tỏ cái hân hoan với tình thương chăm sóc của vợ. Những khi
đó, ông đã nói những lời chân thật như đất ruộng, làm phụ tấm lòng yêu
thương của bà. Ông định nhấp vài hớp rượu để tưởng nhớ đến ơn vợ, nhưng
rồi đặt chai xuống, và thì thầm hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương:
“Em ơi! lửa tắt bình khô rượu.
Đời vắng em rồi say với ai?”
Mắt ông cay cay, tim đập sai nhịp.
Tủ
áo quần của bà còn nguyên vẹn đó. Những chiếc áo giản dị, màu sắc khiêm
tốn. Bà phải chờ cho đến khi bán hạ giá thấp nhất mới dám mua. Bà cần
kiệm, không dám hoang phí. Đi đám cưới, tiệc tùng, bà không cần phải
thay đổi áo mới, kiểu nầy, kiểu kia. Bà nói:
“Ngay
cả ông chồng, còn chưa nhớ được kỳ trước mình mặc áo nào, màu gì, huống
chi thiên hạ. Họ đâu có dư thì giờ mà vớ vẩn nhớ đến cách phục sức của
cả trăm người trong bữa tiệc. Mà dù cho họ có nhớ đi nữa, cũng không
sao, đâu có gì quan trọng. Chắc cũng chẳng ai chê mình không có áo quần
mới khi tham dự tiệc tùng.”
Cái đơn sơ giản dị chân thành của bà làm ông thương và mến phục.
Áo
quần của ông, cũng do bà tìm tòi mua giúp. Khi thấy cái áo quần tốt,
màu sắc trang nhã, giá cả tương đối được, bà hối hả kêu ông chạy gấp đến
tiệm thử liền. Ngay cả áo quần lót, vớ, cà-vạt, cũng do bà mua cho ông.
Bà đem áo quần đã cũ sờn vất đi, thay vào các thứ mới. Ông cứ tự nhiên
dùng, chưa bao giờ biết kích thước đúng của chính ông. Đã có bà lo hết.
Bây giờ không còn bà, ông mới thấy rõ ràng hơn những gì đã nhận được xưa
nay mà vô tình không nghĩ đến. Cầm chiếc quần được lên lai trong tay,
nhìn đường kim mũi chỉ cẩn thận, ông thấy rõ tình thương của bà gói ghém
trong đó. Áo quần mùa đông, mùa hè của ông cũng được bà sắp xếp riêng
từng ngăn cẩn thận. Bà đã cho giặt sạch, kỹ lưỡng trước khi được treo
xếp vào ngăn tủ áo quần, để dành mặc vào mùa sau. Từ khi có bà trong
đời, ông mất dần đi khả năng tự lo, tự lập mà ông vô tình không biết.
Ông
nhớ những khi tham dự tiệc tùng, trong lúc ăn uống, khi có chút rau,
thịt mắc vào kẽ răng, không dùng lưỡi cạy ra được, bà nhìn ông, biết
ngay. Bà len lén mở ví, kín đáo chuyền tay cho ông một cây tăm bọc trong
giấy. Ông xem đó như chuyện tự nhiên. Cũng có khi ông quay qua bà hỏi
khéo:
“Em còn cây tăm nào không?”
Bà
mở ví, đưa cho ông ngay. Trong lúc ăn, có món ngon vừa ý, bà thì thầm
nhắc ông. Hoặc khi lấy thức ăn, bà chọn cho ông miếng ngon nhất. Những
lúc đó, ông hơi ngượng, liếc mắt nhìn quanh bàn. Phần ông, thì cứ dặp
đại, chưa bao giờ phân biệt miếng ngon, miếng dở. Gắp được cục xương
không dính chút thịt cũng cứ vui. Trong bữa ăn, khi thấy ly nước của ông
cạn, bà châm, thêm, ông hoàn toàn không quan tâm đến.
Bà
biết rõ ông ưa thích món ăn gì, để mỗi ngày nấu nướng. Khi nghe ông
khen món nào đó, thì hôm sau, bà nấu ngay cho ông ăn. Ông chỉ lờ mờ nhận
ra hảo ý của bà, nhưng không biết nói một câu nịnh cho vui lòng vợ.
Nhiều
lần ông bà rủ nhau đi du lịch xa, ông có nhiệm vụ lên mạng mua vé máy
bay, đặt khách thuê sạn. Thế là xong. Phần bà lo cho tất cả các mục còn
lại. Từ áo quần thường, áo lạnh, áo ngủ, đồ lót, vớ, giày phụ, dép, bàn
chải răng, kem, kiếng phụ, tăm, thuốc cấp cứu, thuốc dùng ngừa bệnh,
điện thoại di động, giây cắm điện thoại, máy hình, máy điện toán xách
tay và các thứ phụ tùng cần thiết. Danh sách của bà đủ bốn mươi tám món.
Bà cũng không quên mang theo một ít thức ăn khô, phòng khi lỡ đường.
Nhiều khi thấy va-li căng kè, nặng nề, ông gào to:
“Đi chơi chứ đâu phải là dọn nhà? Sao không mang theo cả cái tủ lạnh cho tiện.”
Một
lần đi Âu Châu, cuộc đình công kéo dài, điện tắt và trời bão tố. Ông bà
bình tâm nằm trong khách sạn, không chút nao núng, vì đã có sẵn một ít
thức ăn khô mang theo. Thường trước khi đi, bà đọc kỹ và kiểm soát lại
chuyến bay, lộ trình, các hãng đưa đón, khách sạn, ngày giờ của các
‘tua’ du lịch. Bà bắt ông xuất trình giấy thông hành, căn cước, thẻ tín
dụng, tiền bạc, kiểm soát lại từng chút một, để khỏi quên bất cứ vật gì.
Ông cảm thấy khó chịu vì bị vợ xem như đứa trẻ con. Nhưng khi vợ mất
rồi, ông đi xa mà để quên đủ thứ, nghĩ lại càng thương bà hơn.
Ông
thường ham mê xem các trận đấu thể thao. Nhiều lần ông đang đi chơi với
bạn, bà sợ ông bỏ mất trận đấu, kêu điện thoại nhắc nhở:
“Anh nhớ chiều nay 5 giờ có trận chung kết bóng rổ đó nghe!”
Ông cám ơn bà, và thu xếp về cho kịp giờ khai đấu. Từ
khi có gia đình, ông phụ thuộc quá nhiều vào vợ. Không có bà, ông như
rơi xuống một vực sâu, tối tăm mù mịt, ngày tháng tẻ nhạt. Không gian và
thời gian dường như thành trống rỗng.
Mỗi
chiều tan sở, ông bâng khuâng không biết đi đâu,về đâu cho đỡ thấy
quạnh hiu. Khi vợ còn sống, phải lo về ngay, không dám ngồi quán cà phê
lai rai, về nhà vợ hạch hỏi không dám trả lời thật. Có khi ông điện
thoại cho bạn, hỏi chiều nay ông đến chơi được không, và xin được ăn cơm
tối. Bạn biết ông đang buồn, đơn lẻ, nên thường niềm nở chấp nhận.
Nhiều lần, ông mua một vài món ăn ở tiệm, đem đến nhà bạn góp vào mâm
cơm chiều và sau bữa ăn, uống trà, cà phê. Ngồi trong ghế bành, đôi khi
không nói gì, cầm tờ báo lật qua lật lại, thế mà thấy bớt cô đơn trong
lòng yên ổn. Rồi cũng phải về cho gia chủ đi ngủ. Ông ra xe, nỗi buồn
lại dấy lên thấm thiá. Trời đất như rộng thênh thang. Đường về nhà hiu
quạnh. Nghĩ đến căn nhà trống vắng, lòng ông rưng rưng.
Mỗi
khi mở tủ lạnh tìm thức ăn, thấy trống không, chẳng có thứ gì ăn được.
Vài ba cây trái đã đen điu thồi? rữa thối. Mấy bó rau đã đổi màu đen,
khô quéo. Chai nước lọc cũng cạn. Không còn gì. Trong nhà không có bàn
tay đàn bà, thì xem như chẳng còn có cái gì cả. Ông thầm thán phục những
người bạn độc thân. Không biết làm sao họ có thể sống sót đến tuổi già,
mà vẫn vui vẻ, yêu đời, nói cười. Họ đã làm gì cho tiêu tán quãng thời
gian trống rỗng sau giờ tan sở nhỉ?
Như
một thói quen, những chiều tan sở, ông chạy thẳng ra nghĩa địa, thơ
thẩn bên mộ bà. Trong nghĩa địa hoang vắng nầy, ông thấy bớt cô đơn hơn
là về nhà một mình. Cắm vài bông hoa, thắp nén hương. Rồi ngồi trò
chuyện, như khi bà còn sống. Nói đủ thứ chuyện, nói nhiều hơn cả khi ông
bà còn bên nhau. Ông độc thọai, và ông cứ tin ở dưới lòng đất, bà đang
lắng nghe ông tâm sự. Khi có người lạ đi đến gần, ông hơi xấu hổ, nói
nhỏ lại, chỉ thì thầm thôi. Ông sợ thiên hạ lần tưởng ông đau bệnh thần
kinh. Rồi ông hát cho bà nghe. Hát những bài kỷ niệm, mà ngày trước, ông
bà cùng song ca trong những buổi “Karaoke” tổ chức tại nhà bạn bè. Tai
ông, vẫn còn văng vẳng giọng bà thánh thót hoà lẫn với tiếng hát trầm ấm
trên môi ông. Ông hát từ bài nầy qua bài khác đến khô ran cả cổ. Nhiều
khi ông nằm dài trên cỏ, bên tấm bia mộ ngang bằng, nhìn lên trời cao
mênh mông và tưởng tượng có bà đang thân thiết nằm bên cạnh. Nghe được
cả hơi thở của bà. Hơi thở có mùi hương quen thuộc của ngày nào. Ông
thèm nghe vài lời cằn nhằn trách móc của bà.
Khi
bóng đêm bắt đầu phủ xuống trên nghĩa địa, ông mới uể oải đứng dậy ra
về. Ông nấn ná không muốn khu mộ, nhưng vốn yếu bóng viá và sợ ma, không
dám ở lại khi đêm đen bao trùm khu nghĩa địa hoang vắng. Ông thì thầm:
“Ngày mai anh sẽ đến thăm em.”
Có
những ngày chủ nhật, ông cứ mãi thơ thẩn quanh khu mộ. Ông nhận ra
rằng, bây giờ ông yêu thương yêu vợ hơn nhiều lần khi bà còn sống. Tình
cảm ông tha thiết, nồng nàn hơn xưa rất nhiều.
Mùa
đông mưa dầm dề, gió thốc từng cơn trên nghĩa địa trống trải, ông trùm
áo mưa, ngồi co ro run rẩy trong buốt giá bên mộ bà. Ngày nghỉ ông ngồi
từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều. Tâm trí miên man mơ hồ vô định.
Chỉ
mới một năm thôi, ông hốc hác, gầy rộc, vì mãi miết đắm chìm trong
thương nhớ, khổ đau. Nhiều người khuyên ông nên đi bác sĩ tâm lý để điều
trị, để tránh sa vào tình trạng suy sụp trầm trọng.
Ông
nghĩ, bác sĩ cũng không giúp gì được khi trong lòng ông thương nhớ bà.
Bác sĩ không thể làm bà sống lại, không thể làm phép lạ cho ông quên
buồn.
Một
buổi sáng khi nắng vàng rực rỡ nhảy múa trên khu nghĩa địa, gió mát mơn
man cỏ cây, tiếng chim kêu văng vẳng. Ông Tư rầu rĩ mang bó hoa hồng
đến đặt lên mộ bà, định than vãn vài câu cho bớt nỗi buồn thương không
dứt được trong lòng. Ông ngạc nhiên thấy một tờ giấy cuộn tròn trong
bình đựng hoa. Ông giật mình, ô kià, lạ chưa, có nét chữ của bà. Ông mở
tờ giấy ra đọc. Một bài thơ của ai chép tay chữ viết giống hệt nét chữ
bà. Những chữ h, chữ g và cả cách đánh dấu hỏi ngã. Ông run run đọc:
“Đừng
đứng khóc lóc bên mồ em. Bởi em đâu còn dưới đó nữa. Em đang là ngàn
gió bay cao trên đồng nội, là ánh dương quang lóng lánh giữa biển trời.
Em đang tắm trong mưa thu mát dượi. Em đang trên cao, ngàn sao của giải
ngân hà. Và một sáng mai kia, tiếng chim đánh thức anh. Thì hãy biết đó
là tiếng em kêu anh. Thôi đừng khóc bên mồ em, chúng ta sẽ gặp lại nhau
sau…”
Ông
đọc đi đọc lại đến ba lần, và chợt nhớ ra đây là lời bản nhạc phổ từ
bài thơ của bà Mary Elizabeth Frye viết trong cơn xúc động trên một mẫu
giấy vụn. Trước đó bà Frye nẩy chưa hề bao giờ làm thơ. Bài thơ nầy về
sau rất nổi tiếng, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, được phỏng dịch
ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Ông đã từng nghe trong các đám tang
người Mỹ. Nhưng khi đó, ông chẳng hề để ý. Bây giờ được đọc lại, ông
thấm thiá và ngộ ra: Đúng. Bây giờ bà đâu còn nằm dưới đó nữa. Bà đang ở
trên miền cực lạc. Bà đang sung sướng trong một thế giới khác, không có
khó khăn, vất vả, không giận hờn ganh ghét, không có chiến tranh giành
giựt, và không phải “Đổ mồ hôi trán mới có được miếng cơm vào mồm.”
Thế thì, tại sao lâu nay ông phải âu sầu thương tiếc khóc lóc. Ông đã
tự làm khổ ông, tự đọa đày trong vũng đau thương. Nếu bên kia thế giới
mà bà biết được ông khổ sở rầu rĩ như thế nầy thì bà vui hay buồn? Ông
tự hỏi, ông đau đớn vì thương bà hay tự thương mình? Bà đang hưởng lạc
phúc, thì ông phải mừng, chứ sao lại sầu khổ? Nếu ông tự thương mình,
thì phải chống tay đứng dậy, làm cho ngày tháng còn lại nầy được vui vẻ,
hạnh phúc và lành mạnh hơn là chìm đắm trong tối tăm mịt mù. Ông đến
trước bia mộ và thì thầm:
“Đúng,
em đâu còn nằm dưới lòng đất nầy nữa. Thân xác là cát bụi phải về với
cát bụi. Không còn là em nữa. Em đã bay cao với gió trên mây vàng long
lanh, đang rong chơi nơi thiên đường cực lạc. Anh phải biết mừng cho em.
Phần anh, phải đi nốt tháng ngày còn lại trên hành tinh nầy với những
bước chân vững vàng, vui vẻ và hạnh phúc cho riêng mình. Đó là bổn phận
cấp thiết đối với bản thân.” Ông
lái xe ra về, lòng nhẹ thênh thang. Con đường có nắng vàng reo vui, cây
cỏ xanh ngắt yêu đời. Tiếng nhạc vui rộn rã vang vang trong xe, ông đã
tìm được ý nghiã cho tháng ngày vắng bóng vợ. Ông tin rằng, nếu chết là
chưa hết, chưa vĩnh viễn tan biến, thì ông sẽ gặp lại bà trong tương
lai, ở một nơi an bình hạnh phúc hơn ở cõi trần thế nầy. Nhưng nếu chết
là hết, là xong, thì cũng khỏe. Bà đã khoẻ, và mai đây ông cũng sẽ theo
bước bà tan vào hư không.
Về
nhà, ông ngồi vào bàn, lập một chương trình sinh hoạt mới cho ngày
tháng còn lại. Trước đây ông không dám về hưu vì sợ cô đơn, sợ không có
việc chi làm bận rộn rồi sinh ra quẩn trí mà phát bệnh. Nhưng bây giờ,
ông đã có một chương trình năng động, phủ kín thời gian trong tuần, còn
sợ không đủ thì giờ để thực hiện. Nhưng không sao, với ông thì thi hành
được chừng năm mươi phần trăm cũng đã là thành công rồi. Mỗi
sáng ông dậy sớm, đi đến phòng tập thể dục, chạy bộ trên dây?, cử tạ,
bơi lội, tập yoga, tắm nước nóng. Sau đó họp bạn già uống cà phê, bàn
chuyện trời đất thời thế. Về nhà đọc vi thư bạn bè, giải quyết các công
việc lặt vặt. Rồi ngủ ngay một giấc ngắn. Tự nấu nướng lấy, mặc dù có
thể đi ăn tiệm, hoặc mua thức ăn về. Ông học cách nấu ăn trong liên mạng
vi tính. Đọc bốn năm bài dạy khác nhau, rồi chọn lựa, kết hợp, tìm ra
cách nấu hợp với khẩu vị mà ông nghĩ là ngon nhất. Từ đó, ông ghiền xem
truyền hình dạy nấu ăn, Ông nấu được những món ngon tiếp đãi bạn bè. Có một bà góa ỡm ờ đề nghị:
“Anh
nấu ăn ngon thế nầy, mà ăn một mình cũng buồn và uổng quá. Hay là nấu
cơm tháng cho em đi, mỗi ngày tới bữa em đến ăn. Hôm nào anh bận, thì
báo trước, em sẽ đi ăn tiệm.”
Ông cười lịch sự đáp:
“Cám ơn chị quá khen và đề nghị. Xin cho tôi suy nghĩ lại, xem có đủ sức phục vụ chị không, rồi sẽ trả lời sau.”
Ông
bóng bẩy nhấn vào hai chữ ‘phục vụ” làm bà kia đỏ mặt e thẹn. Ông không
thể tưởng tượng nổi có người nào đó thay thế được vợ ông. Mỗi khi nói
chuyện thân thiết với bà nào đó, mà trong lòng ông có dấy lên một chút
cảm tình, thì ông thấy như mang tội với người vợ đã khuất, ông đã thiếu
chung thủy. Cứ áy náy mãi.
Ông
tham gia các chương trình du lịch xa, đi chơi trên du thuyền. Ông gặp
nhiều bạn bè, đàn ông, đàn bà, cùng vui chơi. Tham dự các trò đùa tập
thể trên du thuyền. Nhiều bà góa thấy ông cô đơn, nhắm muốn tung lưới
bắt mạng, nhưng ông cũng đủ khôn ngoan để né tránh. Ông nói với bạn bè
rằng, mình già rồi, khôn có lõi, không còn ngu ngơ dại dột như thời trai
trẻ, để nhắm mắt chui đầu vào tròng.
Đôi
khi ông cũng muốn có bạn gái, có chút chất “mái”, dù không làm gì được,
nhưng mơ hồ thấy có sự thăng bằng nào đó trong tâm trí. Ông
đã cùng bạn bè tham gia các chuyến du lịch xa, Âu Châu, Ấn Độ, Phi
Châu. Bây giờ còn đủ sức để đi, có điều kiện tài chánh thong thả, tham
gia kẻo mai mốt khi yếu bệnh, khỏi luyến tiếc. Đi theo đoàn đông đảo bạn
bè, thì giờ rất sát, eo hẹp, làm ông không kịp nghĩ, kịp buồn. Trên
du thuyền, gia đình người bạn giới thiệu bà Huyền cho ông, bà đẹp,
duyên dáng, hơi trầm tư, đôi mắt mở to như khi nào cũng ngạc nhiên ngơ
ngác, cánh mũi thon, môi hình trái tim chúm chím. Bà Huyền xa chồng đã
hơn ba năm. Lòng ông Tư mơ hồ dấy lên chút cảm tình vì bà đẹp, hiền
thục, ít nói. Mấy lần hai người ngồi gần nhau trong bữa ăn. Bà Huyền hé
lộ một chút tâm sự riêng tư cho ông nghe, rằng bà may mắn chạy thoát đến
Mỹ vào năm 1975, bà lặn lội thân cò nuôi chồng theo đuổi đại học trong
bao nhiêu năm. Nhờ may mắn trong thương trường, tiền bạc có thời vô như
nước. Gia đình vui vầy tràn đầy hạnh phúc. Rồi tai họa đổ xuống, chồng
bà say mê một cô nhỏ tuổi hơn con gái ông, cô nầy làm công cho cơ sở
thương mãi của gia đình. Ông chồng li dị bà để vui duyên mới. Bà nói
rằng, chẳng trách gì ông, một phần cũng lỗi tại bà không phòng xa, để
cho ông chồng và cô gái có dịp tiếp xúc thường xuyên. Lửa gần rơm thì
phải cháy. Chia đôi gia tài, bà cho ông cơ sở kinh doanh, bà không cần
làm nữa, tài sản có thể sống đến khi già chết.
Ông
Tư cũng cảm mến bà Huyền vì cái giọng nói dịu dàng ngọt ngào, trái tim
nhân áí, và tâm từ bi của bà cùng tấm lòng cao thượng. Khi nhắc đến ông
chồng cũ phản bội mà không thù hận, không gay gắt giận hờn. Bà
Huyền biết kiên nhẫn lắng nghe, tôn trọng ý của người khác, dù có khi
bất đồng quan điểm. Ông Tư cảm thương cho một người đàn bà biết điều như
thế mà gặp phải hoàn cảnh không may. Cái tình cảm trong lòng ông đâm
mầm nhú mộng êm ái. Đôi khi ông cũng giật mình, sợ trái tim ông yếu
đuối, đổi cái quan hệ bạn bè với bà Huyền thành tình yêu. Ông không muốn
mang mặc cảm phản bội bà vợ bên kia thế giới. Nhưng cũng là chuyện lửa
gần rơm, mối giao hảo thân thiết của ông với bà Huyền càng ngày càng
khắng khít. Đã có vài lần ông toan tính thổ lộ cho bà Huyền mối tình cảm
chân thành của ông, nhưng rồi vốn nhát, nên lại thôi. Ông tự cười, đã
chừng nầy tuổi, trên đầu tóc trắng nhiều hơn tóc đen, mà vẫn còn nhút
nhát như thời mười sáu tuổi. Cuối cùng, chính bà Huyền đã mở đường dẫn
ông vào cuộc tình già.
Khi
ông đi gần đến quyết định mời bà Huyền về sống chung, thì bạn bè can
gián, cho ông biết bà Huyền là một trong ba người đàn bà nổi danh đanh
đá độc ác nhất của thành phố nầy. Ai cũng biết, mà chỉ riêng ông Tư
không biết mà thôi. Ông không tin một vài người, nhưng phải tin khi nghe
nhiều người khác nói. Ông quyết tâm tìm hiểu, và vô tình gặp ông Duẫn
là người chồng cũ của bà Huyền trong một buổi họp mặt. Ông lân la đến
làm quen. Thấy ông Duẫn hiền khô, không rượu, không trà, không cả cà phê
thuốc lá, và nói năng lịch sự dịu dàng. Bạn bè lâu năm của ông Duẫn
cũng xác nhận anh nầy là một ‘ông Phật đất’. Hoàn toàn không hề có
chuyện gian díu với một người đàn bà nào. Bà Huyền cũng không nuôi ông
Duẫn một ngày trong đời như bà nói, bà đã đặt chuyện, cứ nói mãi, nên
tin là có thật.
Ông Tư mạnh dạn hỏi thẳng Duẫn: “Anh nghĩ sao, nếu tôi cưới bà Huyền, vợ cũ của anh?”
Ông
Duẫn gãi đầu, và nói ngập ngừng: “Ô… ô, không nghĩ sao cả. Đó là chuyện
riêng của bà ấy với anh. Tôi không can dự gì. Chúng tôi đã li hôn lâu
rồi. Tại sao anh hỏi tôi câu đó?”
Ông Tư hạ giọng:
“Không phải tôi xin phép anh, mà tôi muốn hỏi ý kiến của anh về bà ấy. Nhận
xét của riêng tôi, thì bà Huyền là một người đoan trang, trinh thục,
hiểu biết, có trái tim nhân ái. Nhưng theo nhiều người khác thì đó là
một trong ba bà ác độc nhất của thành phố nầy. Có thật vậy không?”
Ông
chồng cũ của bà Huyền ngững mặt lên trời mà cười ha hả: “Khoan khoan,
đừng nói thế mà tội cho người ta. Phần tôi, nếu không nói tốt cho bà ấy
được, thì cũng không có quyền nói xấu. Tôi không dám có ý kiến gì cả. Có
thể bà ấy không hợp với tôi, nhưng lại hợp với người khác. Có thể tại
tôi bất tài, không tạo được hạnh phúc cho gia đình. Biết đâu, bà ấy với
anh đồng điệu, hai người có thể tạo nên thiên đàng dưới trần thế nầy.”
Ông
Tư ngại ngần và chùn chân, âm thầm lảng xa dần bà Huyền. Bà nầy biết
được ý định, mắng ông Tư một trận nên thân, chưởi ông hèn nhát, bần
tiện, keo kiết, không đáng xách dép cho bà. Ông Tư nghe xỉ vả chưởi mắng
mà mừng húm. May mà chưa có cam kết gì với bà Huyền. Từ đó, ông đâm ra
có thành kiến với bất cứ người đàn bà nào muốn tiếp cận với ông.
Ông
Tư đã hết suy sụp tinh thần, tự tổ chức cho ông một đời sống có ý
nghĩa, có nhiều niềm vui nhỏ nhặt trong đời sống, tránh xa mọi phiền
toái của thế gian. Trong nhà ông treo một tấm biển lớn, chữ viết theo
lối bút họa, ghi lời của một người bạn:
“Có thì vui. Không cũng vui. Được mất đều vui.”
No comments:
Post a Comment