Tuesday, January 29, 2019


Năm con Heo nhớ chuyện … Lợn Trại Tù

Qua năm thứ hai tôi được chuyển về T6 là T ở tận cùng của trại tù cải tạo gồm nhiều T.
Một buổi tối, các nhà đã tắt đèn theo tiếng kẻng ngủ đã lâu, chợt có tiếng những bước chân rõ dần cùng những nhoang nhoáng ánh quét đèn pin, rồi dừng lại trước cửa buồng của tổ X chúng tôi gần hai chục người.
Bật đèn lên !”, một giọng bắc ngắn ngủi ra lệnh. Chúng tôi lồm cồm ngồi dậy, vén màn chui ra chờ lệnh tập họp. Đèn sáng, trước mặt chúng tôi là một anh cán bộ lạ mặt tay cầm đèn pin, tay kia cầm một quyển sổ nhỏ ghi chép, đi theo sau là hai người vệ binh với cây AK khoác trên vai, vẻ mặt hờ hững, không giống như vài lần điểm danh “đột xuất” với chỉ một người quản giáo quen thuộc mà anh em thường gọi thầm là “thằng Đen”.

Anh cán bộ có vẻ vội vàng, xua tay nói, “Khỏi, khỏi, khỏi tập họp”. Anh liếc xuống trang giấy mở sẵn của quyển sổ nhỏ, rồi ngẩng mặt nhìn chúng tôi hỏi, “có anh Nguyễn văn Y. trong phòng này không ?”. Tim tôi chợt nhói lên như sau một nhịp đập hụt. Tôi hít mạnh khí trời vào đầy lồng ngực, và lòng tự nhiên bình tĩnh lại với cảm giác thanh thản. Chẳng phải tôi vẫn chờ đợi giây phút này sẽ phải đến hay sao, nhất là sau những lần di chuyển lòng vòng, từ tổ An Ninh Cảnh Sát không đi Bắc, đến tổ Tù Binh và Chiêu Hồi …. hay từ vài lần phải lên khai bổ túc cũng như trả lời thêm những câu hỏi về Liên Minh Á Châu Chống Cộng, một tổ chức tôi có tham gia trong phạm vi chuyên môn và vị tình bè bạn thời đi học.

Tôi trả lời “có tôi”, và đứng dậy gỡ màn để khởi đầu thu xếp hành trang cho một chuyến chuyển trại ban đêm mà có lẽ, lành ít dữ nhiều. Anh cán bộ lại khoác tay, “khỏi, khỏi phải mang gì, anh thay quần áo đi theo chúng tôi ngay !”. Tôi mặc vội bộ quần áo lao động, xỏ chân vào đôi dép tự chế, bước đi theo ba người: một vệ binh phía trước, người cán bộ đi bên cạnh, phía sau là người vệ binh còn lại. Đèn phòng đã tắt, nhưng những ánh mắt ngơ ngác và ái ngại của anh em cùng tổ vẫn bám theo những bước chân nặng nề cùng trí óc chợt như trống rỗng của tôi…

Chúng tôi đi im lặng bên nhau theo đội hình ban đầu. Đêm đen im lìm cùng ánh đèn pin nhoang nhoáng soi bước. Cái lạnh tháng mười làm tôi tỉnh táo. Tôi liếc nhìn quanh, đã đi xa khỏi cả cái T đầu tiên của trại tù. Xa xa phía trước đèn sáng hơn, hình như là Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn. Chẳng lẽ tôi lại bị dẫn lên đây để hỏi cung đêm, một điều rất khó xẩy ra với thân phận và chức vụ của một người SQ nặng về chuyên môn như tôi, cho dù tôi thuộc về một binh chủng có rất nhiều “nợ máu với nhân dân với chiến sĩ” như họ thường “lên lớp”.

Chợt người vệ binh rời con đường chính, rẽ sang hướng khác mà xa xa là một tòa nhà khá to đèn đuốc còn sáng. Dừng lại trong sân, người cán bộ bây giờ mới quay sang tôi hỏi, “anh là bác sĩ ?”. Tôi chưa kịp trả lời, anh đã tiếp, “anh biết đỡ đẻ ?”. Bao nhiêu hoang mang lo âu trong tôi vụt tắt. Tôi thở phào ung dung như đang đứng trước bệnh nhân, trả lời “tôi không phải là bác sĩ chuyên về sản khoa, nhưng tôi có đỡ đẻ thuở đi học. Bà ta sanh lần thứ mấy vậy ?”. Và lòng thầm mong không phải là sanh con so hay một ca khó cho một người chỉ vẻn vẹn đỡ có hai mươi ca bình thường, đủ điều kiện đòi hỏi để ra trường như tôi. Anh cán bộ lại im lặng dẫn tôi lên bậc tam cấp và mở cửa. Một mùi hôi ngai ngái và khai nồng ập lên mũi. Tôi chưa kịp nhận ra người sản phụ nào ở trong căn phòng thì bên tai tôi, giọng người cán bộ hơi ngập ngừng, “không phải người, mà trại nhờ anh đỡ đẻ cho con lợn này. Nó lên cơn đau từ chiều tối đến giờ chưa chịu đẻ !”.  Con heo “sản phụ” thật to, trắng hồng, nằm chình ình giữa căn phòng lót gạch hoa, có rào gỗ vòng quanh, yên lặng ngước mắt nhìn tôi. Ánh mắt của người cán bộ cũng nhìn tôi chăm chăm, nửa hơi có ánh khẩn nài, nửa như nghi ngại, chờ tôi lên tiếng. Tôi im lặng suy nghĩ. Anh cán bộ tiếp thêm, “thì lợn đẻ cũng giống như người. Anh đỡ người được thì chắc cũng đỡ cho lợn được Xong xuôi ta nghỉ một hai ngày lao động, thế nhé…”. Dưng không định mệnh có vẻ như đang chơi khăm tôi, muốn thử gắn liền số phận tôi với số phận con heo chết tiệt đau đẻ không đúng lúc này !

Nói đến định mệnh, tôi tạm dừng chuyện lợn để tiết lộ cho bạn đọc hay một điều: số tôi khá kỳ cục, và theo lá số Tử Vi thuở nhỏ, cũng như những lần xem sau này khi đã vào đời, và cả lúc đã đi tù, tất cả các thầy xem lá số (có thầy là bậc tiền bối vì quen với bố tôi, cũng có thầy là bạn … ăn nhậu của tôi) đều phán giống nhau ở một điểm chung, là số tôi mệnh vô chính diệu, đời thăng trầm như nắng và mưa, lên lên xuống xuống như cái cây thụt máy tầu của cụ Tản Đà, nhưng bao giờ cũng “cùng tắc biến, biến tắc thông” – hễ cứ khi bước đường cùng ngõ cụt hay lò dò lui cui chui vào đường hầm thi cuối cùng bỗng dưng lại vẫn … thoát. Và lần này tôi cũng … thoát, thoát gọn, vì tôi đã có “đối sách”.

Tôi tự tin nhìn thẳng vào mắt anh cán bộ, dõng dạc, “con heo này đẻ khó đây, nhưng tôi sẽ đỡ cho nó mẹ tròn con vuông. Có điều tôi cần thêm một người bạn quen việc phụ mới được”. “Ai vậy?”. “Anh C. ở cùng phòng với tôi”. Người cán bộ bảo tôi, “anh ở đây nha, không được đi loanh quanh, khu này Bộ Chỉ Huy canh gác kỹ lắm đấy”, rồi hấp tấp cùng hai người vệ binh biến nhanh trong đêm sau khi không quên đóng cửa nhốt tôi chung với con heo “sản phụ”..

Tôi quen, biết và thân anh C. khi cùng được “biên chế” về chung một lán ở Long Giao từ những ngày đầu và  sau này khi chuyển trại, lòng vòng vài T rồi cuối cùng lại được ở chung một phòng với nhau. Lý do thân anh cũng đơn giản. Anh là người chất phác thiệt thà, xuất thân con nhà nông. Thuở nhỏ cạnh việc học còn là việc nhà, trước khi phải lo toan … việc nước. Và việc nhà, theo lời anh kể những buổi tối thủ thỉ thù thì bên nhau, là trăm thứ lụn vụn đời sống làng quê, trong đó ngoài trồng trọt, thả cá, nuôi gà vịt còn có cả việc chăm lo một bầy heo năm, sáu con lúc khỏe mạnh lẫn khi đau ốm, kể cả chuyện cho heo nái nhẩy đực. Tôi thân anh có lẽ ngoài hợp tính hợp tình, chúng tôi còn cùng lớn lên từ con nhà nghèo cơ cực. Đi làm trai thời loạn, tôi với anh đều là dân binh chủng trận địa, kẻ nón đỏ, người mũ nâu. Những ngày cuối cùng của miền Nam, trong cương vị TĐ Phó anh đã được đưa lên nắm quyền TĐ Trưởng một tiểu đoàn tân lập chỉ hơn hai tuần trước khi chung cuộc. Có lẽ với chức “phó” anh khai và xuất thân gia đình nông dân, anh qua khỏi các đợt chuyển đi Bắc.
Tôi vừa chờ anh cứu viện, vừa vái trời anh đã từng đỡ đẻ heo khi phải chăm sóc bầy heo nơi quê nhà.

Cửa lại mở. Người cán bộ bước vào theo sau là anh C. với gương mặt còn đầy lo âu, không dấu vẻ ngạc nhiên nhìn tôi như dò hỏi. “Theo hai anh thì bao lâu nữa nó đẻ ?”. Bây giờ anh C mới nhìn đến con heo và hiểu ngay “mục đích yêu cầu của cách mạng”. Anh tiến tới gần quan sát, rờ rẫm phía dưới và trả lời với đầy tự tin “chừng gần sáng là nó sanh. Chà hổng dưới sáu con à nha”. Người cán bộ hài lòng, mắt sáng lên, nhìn chúng tôi phấn khích với sự tin tưởng. “Được rồi, hai anh ở đây lo cho nó. Để tôi đi gọi “bồi dưỡng”. À, tôi dặn lại, hai anh chỉ ở trong phòng này thôi, không đi linh tinh nhá. Cần gì ra cửa gọi, sẽ có người đến”. Nói xong anh bước đi không quên đóng chặt cửa phòng.

Anh C. đột nhiên đấm một quả vào vai tôi thiệt đau. Tôi ngẩn người không hiểu. Anh C cười rạng rỡ thành tiếng, “ĐM, đêm khuya nó đem vệ binh xuống dẫn đi một thằng nón đỏ, rồi ĐM nó, gần nửa đêm lại súng ống lùa đi một thằng mũ nâu … Tui xém nữa là đái ra quần đó ông”. Tôi cố nở một nụ cười, “Ít ra thì mình cũng tiền hung hậu kiết… Mà hỏi thiệt ông lo được cho con heo này không ?”. “Chuyện nhỏ, lát nữa tui chỉ cần ông phụ chút đỉnh thôi”.
Có bước chân nặng nề bên ngoài tiến gần rồi của lại mở. Hai bộ đội dáng chừng là “anh nuôi” khệ nệ mang vào hai chậu thau bốc khói, đi thẳng đến chỗ con heo đặt xuống. Mắt tôi (và có lẽ cả mắt của anh C.) như hoa lên. Cơm trắng! Cơm trắng ! Và thau bên cạnh tuy loãng, nhưng mùi thơm ấy, mầu nâu sánh nhạt ấy nhất định phải là cà phê sữa ! Cả hai đều là những xa xỉ phẩm đã từ lâu chúng tôi chưa nhìn thấy chứ đừng nói là … chạm tới. Hình như cả cần cổ tôi lẫn anh C vừa nhấp nhô cục táo với nước bọt tiết ra …
Anh nuôi đi đầu quay sang bảo tôi “cái này là phần bồi dưỡng của con lợn sau khi sinh nhé. Các anh cố ép nó ăn hết, uống hết cho nó lại sức nha”. Anh nuôi kia móc từ túi quần bộ đội chiếc điếu cầy dã chiến kèm theo một gói nhỏ thuốc lào, đặt xuống dưới nền nhà bên cạnh tôi.  “Còn đây là bồi dưỡng của hai anh. Tiên Lãng đấy”.  Anh nói xong há miệng ngáp rất tự nhiên không cần che dấu, trước khi cùng nhau ra về, không quên đóng chặt cửa ra vào.

Anh C nhìn tôi. Tôi nhìn lại anh C. Chúng tôi im lặng nhìn nhau, nhưng hình như mắt chúng tôi đã len lén nói với nhau tất cả. Năm phút, rồi mười phút trôi qua. Trong im lặng chúng tôi vẫn nghe rõ tiếng nuốt nhẹ từ cần cổ. Cơm trắng. Cà phê sữa. Cơm trắng. Cà phê sữa. Như những điệp khúc không thành lời mà âm thanh vang chát chúa trong tôi.

Anh C. ngồi xuống, chậm rãi kéo cái điếu cầy về phía mình, mở gói thuốc lào Tiên Lãng ra, nhón một bi, mấy ngón tay run run vân vê “viên bi” vàng sợi. Anh thong thả đánh lửa vừa châm đốt thuốc vừa rít một hơi thật dài long soòng soọc với tiếng nước kéo ròn tan. Rồi anh ngửa cổ, mắt lim dim thở ào ra cuồn cuộn khói trước khi đẩy chiếc điếu cầy sang tôi. Trong khi tôi đang lấy thuốc, anh chợt mở to mắt, nhìn sang tôi, ánh mắt nhuốm chút bi thương, giọng run run và khàn khàn không biết vì say thuốc hay vì niềm ham muốn đang thôi thúc, “ông ạ, bây giờ làm một ngụm cà phê sữa, rồi vốc một bụm cơm, chắc chết cũng sướng …”.  Trái tim tôi tự dưng đập muốn loạn nhịp trong nỗi cám dỗ cùng cực. Tôi nhìn anh C như nhìn thấy tất cả sự thống khổ cùng nỗi cám dỗ của chính mình. Mắt tôi chợt chạm vào hình ảnh của con heo sản phụ đang nằm xoài người dửng dưng bên thau cơm và thau cà phê sữa còn bốc khói.
Bỗng tôi ứa nước mắt nắm lấy tay C. và nghe giọng mình như vọng về từ một cõi rất mơ hồ. “Đừng, đừng, C. ơi, đừng … Miếng ăn này, miếng uống này, mình có sống cũng như đã chết, C. ơi”.

Hình như chúng tôi đã xiết tay nhau rất chặt, rồi cả hai cùng vùng đứng dậy. Con lợn bắt đầu rền rỉ cơn đau đẻ.


*********************************************************************************************************************

Hồi Ký Của Một Bác Sỹ

  
  Một bác-sĩ “cách-mạng” từ Bắc vào, hăm-hở đến tiếp-thu bệnh-viện Vĩnh-long sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã thốt ra câu nói đầu tiên với chúng tôi :
"Các anh là kẽ thù của nhân-dân, đáng tội chết..."
Tuy mới mấy ngày sau khi "giải-phóng" nhưng tai chúng tôi cũng đã quen với câu nói đó, chỉ có khác là lần này được phát ra từ miệng một bác-sĩ mà chúng tôi chờ đợi để hy-vọng thấy được một nụ cười hay một chút thông-cảm trong tình đồng-nghiệp. Chẳng khác gì những cán-bộ khác, bác-sĩ cũng tuông ra câu học thuộc lòng:
"Nhưng Đảng và Nhà-nước khoan-hồng tha tội chết cho các anh..."

May thay, chúng tôi được tha tội chết, nhưng thay vào đó, phải lảnh cái án "dở sống dở chết " kéo dài năm này qua năm nọ trong các nhà tù, nhường sự-nghiệp lại cho các đồng-nghiệp mới, huênh-hoang trong cái độc-quyền nhân-đạo với các bảng hiệu « Lương Y như Từ-mẫu » treo nhan nhản khắp xó xỉnh trong bệnh-viện.
Có lẽ Cụ Hippocrate ở dưới suối vàng cũng không khỏi phẫn-nộ khi các môn-đệ ở Miền Bắc không chịu học lời thề Cụ dạy trước khi ra trường:
"Tôi thề sẽ giúp đở các đồng- nghiệp và gia-đình họ trong cơn ngặt nghèo, tôi sẽ mất hết danh-dự và bị khinh-bỉ nếu tôi không giữ lời thề đó".
Trước mặt thì đồng-nghiệp gọi chúng tôi bằng "anh", nhưng quay lưng lại là "thằng", là "chúng nó" ngay, không hiểu là vì thói quen, vì văn-hóa, vì mặc-cảm hay vì chính-sách.

Ngày đầu tiên mới đặt chân lên đất Bắc trên con đường lưu đày, khi mà tầm mắt đang còn ngỡ-ngàng với rừng sâu núi thẳm, khi mà thể xác và tinh-thần chưa lai tỉnh qua cuộc hành trình định-mệnh kinh-hoàng, thì chúng tôi được đón tiếp vồn-vã bởi một đồng-nghiệp. Vồn-vã không phải để thăm hỏi sức khỏe hoặc để an-ủi một lời nào, mà để tịch-thu thuốc men và dung cụ y-khoa mà chúng tôi mang theo, nhất là để tò mò tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống "phồn-vinh giã-tạo" ở trong Nam.

Câu nói đầu tiên và gần như là câu chào hỏi ở cửa miệng mỗi khi gặp nhau: "Anh ăn mấy lạng ?" (gạo mỗi ngày), làm chúng tôi bở ngở không biết đâu mà trả lời. Thì ra cái quan-tâm hàng đầu của nền y-khoa miền Bắc là cái bao-tử, và xã-hội được chia ra làm nhiều loại bao-tử khác nhau tùy theo đẳng-cấp và sự trung-thành với Đảng: 120 lạng ,150 lạng, 170 lạng.... cái hàn-thử-biểu để đo vị-trí mình trong xã-hội. Kế đó là thắc mắc về những phần thịt đươc bồi-dưỡng trong những ngày lể, ngày Tết… Thấy chúng tôi không ở cùng một tần-số trong cái hội-chứng đường ruột đó, bác-sĩ bèn lên mặt chỉ-đạo: "Chớ có trốn trại nghe, không thoát đâu ". Quả-nhiên lời khuyên có chấp-chứa ít nhiều tình thật đó lại là không sai. Chỉ có vài ngày sau khi đặt chân đến cái nơi núi rừng chằng chịt mang tên Sơn La đó, khi chưa xác định được vị-trí trong cái bản-đồ mênh-mông của miền Thượng-du Bắc Việt, thì một số anh em đã lần lượt trốn trại rồi lần lượt bị bắt lại để gánh chịu những hình phạt ghê gớm đang chờ sẵn. Trong số đó phải kể đến hai đồng-nghiệp, một Thiếu-tá Y-sĩ- trưởng Trung-tâm Hồi-lực ở Sài-gòn và một Y-sĩ Đại-úy Thủy-quân Lục-chiến, đã thoát khỏi lao tù vì đã trốn qua "bên kia thế -giới" sau khi không thành-công trong cuộc tổ-chức trốn qua "bên kia biên-giới".

Sau một thời gian xáo trộn, chúng tôi gồm có 8 bác-sĩ, 1 nha-sĩ, 2 dược-sĩ được tập-trung lại để thành-lập một "trạm-xá " có nhiệm-vu săn sóc sức khỏe cho anh em tù trong vùng. Bằng những phương-tiện của thời-đại đồ...tre, với kỹ thuật từ thời Hoa-đà, chúng tôi cũng được an-ủi bằng một số thành-công trong nhiệm-vụ chửa trị, và đã lưu lại cho chúng tôi nhiều kỹ niệm khó quên. Anh T. bị bệnh phung cùi, bọn cai tù ghê sợ, biệt giam trong một cái chòi giữa rừng, thường ngày chúng tôi đến thăm viếng, theo dỏi bệnh tình, chia nhau từng củ sắn củ khoai, khích lệ cho nhau cho đến ngày về. Anh H. bị mất trí vì trúng độc khi ăn phải trái cây rừng, suốt ngày la hét, phải cách ly trong một túp lều ở giữa rừng, chúng tôi chia phiên nhau túc trực ngày đêm bên cạnh để canh chừng, nhưng cuối cùng anh cũng qua đời.
Phải kể đến những trường hợp giải-phẩu theo kiểu...rừng, với tất cả liều lỉnh rủi may. Trang-bị bằng một bộ trung-phẩu dã-chiến của Trung quốc và một lò hấp ướt (autoclave), với mấy bình ê-te (ether) và cái masque Ombredane là dụng cụ đánh thuốc mê hở (circuit ouvert) cổ lổ sĩ dùng trước thế chiến 1914-1918. Trong những "bloc" được ngăn cách bởi những tấm phên tre và tấm vải mùng, muổi mòng tha hồ bay lượn, dưới ngọn đèn dầu và đèn pin, mà nhờ trời chúng tôi cũng thành-công được trong nhiều trường hợp, những chấn-thương vì tai-nạn lao-động, hay trường hợp anh N. bị tắc nghẻn ruột, phải giải-phẩu để tái tạo một hậu-môn tạm thời, phải theo dỏi và săn sóc từ A đến Z trong nhiều tháng với sự tận-tình của mọi người nên kết quả rất khả-quan, vân vân và vân vân. Chúng tôi đã đóng tất cả các vai trò trong việc điều trị, từ lao-công, y-tá, phụ mổ, gây mê, cầm dao, rồi hậu-phẩu, vệ-sinh, giặt giủ v...v...bù lại khỏi phải đi lao-động đốn vầu, đốn nứa, đẩy xe trong những lúc đó.
Một sự tình cờ khiến chúng tôi phải giải-phẩu cấp cứu thành-công cho một tên cán bộ bị viêm ruột thừa cấp-tính mà không biết chở đi đâu. Mấy tháng sau, nhân dịp Tết Nguyên-đán 1978, có mấy cán-bộ trong ban chỉ-huy trại đến cám ơn chúng tôi, và tưởng-thưởng bằng một tấm hình chụp chung mấy anh em chuyên-môn trong bệnh-xá, một kỹ-niệm độc nhất vô nhị của những ngày tù ở Sơn La.
Tiếng đồn lên tới Bộ chỉ huy Đoàn. Một số cán-bộ có thiện tâm muốn mở tầm hoạt động của chúng tôi cho dân chúng trong vùng Mường Thải, huyện Phù-yên, nơi mà xưa nay dân chúng chưa hề thấy đươc cục xà bông chớ đùng nói chi đến viên thuốc tây. Thế rồi dân chúng đến xin chửa trị mỗi ngày một đông, tuy thuốc men chẳng có gì nhiều nhưng cũng giúp ích được một số lớn trường hợp và ít ra cũng giúp họ làm quen với y-khoa ngày nay thay vì phải uống lá rừng suốt đời. Khi đặt ống nghe vào ngực, có người đã huênh-hoang khoe rằng là được... rọi điện.

Đông nhất là phần chửa răng. Ngậm một cái răng sâu năm này qua tháng nọ như một cái đinh đóng vào óc, nay được nha-sĩ nhẹ nhàng xoi xỉa với một cái máy quay đạp bằng chân, hoặc nhổ đi mà không đau đớn gì, thật là một điều mà dân Mường ở đó không bao giờ mơ tới.
Một đêm nọ, đang lúc giữa khuya, một cán bộ VC cầm cây đèn bảo xăm xăm bước vào phòng giam chúng tôi, bảo rằng một người đàn bà trong bảng Mường đang nguy kịch vì đẻ không ra đã hai ngày nay. Anh Thức, chuyên môn về phụ-khoa được cử đi cấp-cứu. Trong môt gian nhà sàn rộng rải không có vách ngăn, ở giữa là cái bếp lửa cháy suốt ngày đêm, dăm ba người đàn ông ngồi quanh nói chuyện ồn ào tỏ vẻ lo lắng, ở trong góc một người đàn bà đang quằn quại rên la một cách tuyệt-vọng. Trong khi mọi người bu quanh chăm chú và nghiêm-nghị nhìn anh Thức khám bệnh như nhìn một phù thủy đang làm phép, anh Thức bình tỉnh khám thấy rằng đó là một trường hợp song thai, hai đứa bé ôm quàng lấy nhau mà lại nằm ngang, không đẻ ra bằng đường tự-nhiên được. Phải chở đi bệnh-viện để mổ lấy con ra, nhưng anh Thức quên rằng chuyện đó không thể có được ở đây. Không làm gì hơn được, anh bèn tạm thời dẹp sách vở qua một bên mà cố gắng xoay một đứa cho cái đầu ở vị trí thuận-lợi để ra trước, rồi đến đứa kia, cuối cùng được mẹ tròn con vuông, trong sự rối rít cám ơn của mọi người mà trước đó đã được học tập để coi chúng tôi như những kẽ ác ôn, lúc nào cũng sẳn sàng "cho một mũi tên độc".

Từ đó các cô gái Mường trong bản cũng tự -nhiên hơn, cưới đùa mỗi khi tắm suối mà có chúng tôi đi lao động ngang qua, có khi còn chọc ghẹo nửa. Có anh trong phút chốc bốc đồng đã quên mình là tù đang đói rách, cũng gồng mình nhảy xuống tắm theo, chỉ tiếc là không có sẵn cục xà bông để tặng mấy cô Mường, lúc đó hẳn là muôn phần quý giá hơn cả viên kim cương đem tặng đào ở Sài–gòn nửa. Về sau mỗi cô gái Mường lại đươc đặt cho cái tên của một ca sĩ nổi tiếng, nào là Mai-Lệ-Huyền, Phương-Dung, Giao-linh, Phương-Hồng-Quế v…v…, để rồi lúc chiều về, trong khi ngậm-ngùi nhai từng hột bo bo, thường kể cho nhau nghe rằng hôm nay đi rừng gặp được ca-sĩ nào, ai nghe tưởng như mới đi phòng trà về mà tạm quên trong giây lát cái cảnh nước sông công tù mình đang sống.

Một hôm, một cô giáo hớt ha hớt hãi tìm tới chúng tôi, vì chồng cô, một bộ đội công-tác ở trong Nam được về nghỉ phép, bổng nhiên thấy mình mẩy nổi mề-đay lên đỏ rần, ngứa khắp cả người. Chúng tôi đoán là bị dị-ứng với trứng gà, vì thường ngày đi lao-động ngang qua trường học, thấy cô giáo cứ o bế mấy con gà để chờ ngày chàng về mà bồi-dưởng. Chúng tôi bèn lục lạo đươc mấy viên thuốc Phénergan đưa hết cho cô.
Mấy hôm sau đi lao-động gặp lại, chúng tôi hỏi : "Sao ?  Anh nhà đã đở chưa ?" Cô vui vẻ trả lời : "Thuốc các anh cho hay quá, khỏi ngay". Chưa kịp hỏi thêm thì bổng thấy cô cúi mặt e thẹn, ấp úng nói thêm như không muốn cho chúng tôi nghe: " Nhưng ngủ li bì, về phép có năm ngày mà ngủ như chết suốt cả năm ngày" .Chúng tôi hối hận vì đã cho thuốc ngủ mà không dặn trước, làm cho cô phải bỏ lở một cơ-hội bằng vàng !

Thế rồi trạm-xá càng ngày càng đông khách, dân chúng từ xa cũng nghe đồn kéo lại để cho trạm-xá được hoạt-động đúng với danh-nghĩa y tế của nó. Thiện-cảm và uy -tín càng tăng thì, ngược đời thay, cấp chỉ-huy Trại càng lo lắng. Cuối cùng, Uỷ-viên Chính-trị trên Đoàn lập tức ra lệnh không được khám bệnh cho dân nửa, vì trái với chính-sách, và ný-nuận rằng từ mấy ngàn năm nay họ đã chửa trị bằng lá rừng thì đã sao đâu !

Chúng tôi trở lại lao-động, cũng đốn vầu đốn nứa như những anh khác.
Phải cái tội cao giò, tôi thường được chọn đi công tác gánh hàng ở xa, để gánh luôn tất cả tủi nhục của kiếp làm… tôi mọi. Buổi sáng ra đi thì còn dể chịu, trời mát, gánh nhẹ. Nhưng buổi trưa lúc trở về, trời nắng gắt miền núi như đốt cháy da, lại phải leo đèo, mồ hôi chảy giọt, bụng đói cồn cào, cái đầu nặng trỉu, chiếc đòn gánh đè nặng trên vai đang nghiền nát da thịt như những con dao. Người cán-bộ đi theo cũng không quên máng thêm vào chiếc nón cối, cái áo trấn-thủ mà hồi sáng mang trong người vì trời lạnh, nay không cần nửa thì tội gì mà không để cho rảnh tay, vì tay đang bận cầm cây roi, một thứ thời trang của cán-bộ quản-giáo khi đi bên cạnh tù. Đã thế mà khi gặp một bạn đồng-hành, cán-bộ cũng không quên niềm-nỡ mời :"Đồng-chí có mang gì không, đưa cho nó gánh luôn". Tôi nghe mà rụng-rời, mắt hoa lên mà không dám nhắm lại vì sợ ngả sẽ không bao giờ dậy lại được, cũng không dám nhìn xa hơn mấy đầu ngón chân vì sợ không đủ can-đảm để bước thêm...

Một hôm vì nhu-cầu cấp-cứu một bệnh-nhân tù đang nguy kịch, tôi được cử theo một cán-bộ đến bệnh-viện Phù-yên để xin mấy chai nước biển. Đã lâu bị giam hãm giữa bốn bức tường núi, nay được dịp thấy lại làng mạc với cảnh sinh-hoạt của nhân-dân, lòng cũng không khỏi thích-thú vì tầm mắt đươc hé rộng ra một chút và thỏa -mãn thêm tánh tò mò nghề-nghiệp muốn biết tổ-chức y-tế miền Bắc ra sao mà các "đồng-nghiệp " đề cao như là đúng hàng đầu trên thế-giới.

Huyện Phù-yên thuộc tỉnh Sơn La, nằm giữa một thung-lũng nhỏ, bốn bề là núi nhưng rất nên thơ. Từ trại tới huyện phải đi qua ngọn đèo Bang xinh xinh, có con đường mòn uốn quanh, có hoa rừng thơm ngát. Từ trên nhìn xuống gần giống như một bức tranh Tàu, mờ mờ ảo ảo., rải rát nơi nơi là nhũng túp lều lụp xụp bám theo sườn núi. Bước vào huyện phải qua một con suối lớn, mùa khô thì chỉ là một suối đá hiền-hòa thơ-mộng, nhưng khi mưa xuống thì trở nên một thác lũ kinh-hoàng. Bắt ngang qua suối là một cây cầu treo, gió thổỉ đu đưa, mà lại được anh em tù gán cho cái tên rất hấp-dẩn để cho trí tưởng-tượng được nâng cao là cầu Golden Gate. Mỗi khi gánh hàng qua Golden Gate, tôi có cảm-tưởng như mình đang là một nghệ-sĩ đu giây trong một đoàn xiệc mà có thể hụt tay bất cứ lúc nào.

Bên kia cầu là một túp lều không vách, gió lộng bốn phía, đó là trường học với dăm bảy em bé ốm tong teo, bụng ỏng thề lề, mỗi đứa cầm một que củi đang cháy quơ qua quơ lại trước người cho đở lạnh trong những bộ áo Mường mỏng manh. Trong khi các em nghêu ngao hát bài "Hôm qua em mơ thấy Bác Hồ..." thì cô giáo đang chăm chú ngồi vá áo, mắt đăm chiêu, hình như cũng đang mơ thấy những chuyện mà dĩ-nhiên khác hơn là thấy Bác Hồ. Hình ảnh đó làm cho tôi có cảm tưởng rằng Cụ Cao-Bá-Quát đã đi ngang qua đây để cảm-hứng mấy câu thơ:"Một thầy một cô một chó cái,
Nửa người nửa ngợm nửa đười ươi."

Bên cạnh trường là một cái "cối giả gạo" có lẽ đã được sáng chế từ đời vua Thần Nông. Nước từ con suối nhỏ đươc dẩn qua một máng xối đục từ một thân cây, chảy xuống một thân cây dài khác, một đầu là cái chày, đầu kia đục thành một máng chứa nước. Hể máng đầy nước thì cái chày tự -động ngóc lên, rồi nước bị đổ ra ngoài để cho chày giả xuống cái cối ở đằng trước. Cứ thế mà tiếp-tục, cối cứ giả ngày giả đêm, tạo nên một tiếng đập nhịp nhàng khô khan để đánh thức cô giáo và lủ học trò khỏi ngủ gật. Năm thì mười họa, một năm vài lần cối mới có gạo để giả, vì dân phải đóng cho nhà nước hết ba phần tư số thu hoạch, vốn đã nghèo nàn trên những mãnh ruộng bằng bàn tay xếp thành từng tầng trên sườn núi.

Khi đến cổng bệnh-viện, tôi được chứng-kiến một cảnh tấp-nập khác thường, nghỉ bụng rằng chương-trình y-tế ở đây đã thành-công vì được dân-chúng hưởng-ứng đông đảo. Mọi người bu quanh một tấm bảng, hình như để theo dỏi một thông-báo gì quan-trọng của bệnh-viện về một biện-pháp y-tế nào đó chăng. Lại gần, tôi thấy rõ thông-báo như sau "Hôm nay bệnh-viện có mổ lợn, bán theo giá chính-thức. Đồng-bào nào muốn mua xin ghi tên ở phòng ngoại-chẩn". Tôi suýt té ngửa vì sau bao nhiêu năm hoạt động trong ngành y- tế tôi vẫn chưa biết được rằng cung-cấp thực-phẩm cho dân chúng cũng là một khía cạnh trong chương-trình y-tế.

Trái với cảnh xôn-xao ngoài cổng, trong bệnh viện lại vắng tanh. Tìm cho ra người thủ-kho để xin thuốc thì được biết cô gái Mường này bận đi hái bông lau về làm nệm để tặng một cô bạn gái sắp về nhà chồng, một tục-lệ không thể bỏ được của người Mường. Lân la mãi mới gặp được bác-sĩ trực, vị này không mấy niềm-nỡ vì đang bận cải-hoạt (có nghĩa là cải-tiến sinh-hoạt để cho đời sống vui tươi hơn) bằng cách ngốn nghiến mấy củ khoai. Bác-sĩ trực cho biết "Chỉ có bác-sĩ thủ-trưởng mới có quyền quyết-định, nhưng bác-sĩ đang bận mổ."
Tôi thất-vọng chán chường, nghỉ đến bệnh-nhân ở trại đang hấp-hối mong chờ mấy giọt nước hồi-sinh, nghỉ đến con đường về vừa nắng gắt vừa phải leo giốc, nghỉ đến cái dạ-dày đang cồn-cào vì sáng nay không may đọc được mấy chữ "thịt lợn" trên bảng thông-cáo mà nước bọt cứ chảy dài (chẳng lẽ tôi lại biến thành con chó của Pavlov, hể nghe tiếng chuông là dịch tiêu -hóa cứ tuôn chảy, rồi hay sao?) Tôi buồn rầu thất vọng, không biết bao giờ bác-sĩ trưởng mới mổ xong, vã lại áo quần lem-luốc thế này làm sao gặp được bác-sĩ ở khu giải -phẩu. Tôi đánh bạo tìm đến bác-sĩ trực hỏi : "Thế tôi có thể gặp bác-sĩ thủ -trưởng được không ?"
Lần này vị y-sĩ trực vui vẻ trả lời (vì đã ngốn xong mấy củ khoai): " Được chứ, có gì đâu, anh ấy đang bận mổ lợn dưới ao đấy mà". Tôi như từ cung trăng rơi xuống !
Quả nhiên, cách đó không xa, cạnh bờ ao, năm ba người đang bao quanh một con lợn đã cạo lông trắng nõn nằm trên một tấm thớt lớn. Trong khi đó, bác-sĩ thủ-trưởng bệnh-viện, mình trần, quần xắn tới bẹn, áo bờ-lu vắt ở hàng rào, đang nhanh nhẹn ra tay mổ bộ đồ lòng với tất cả sự nhanh nhẹn và khéo léo của một...đại giải -phẩu gia.
Lẽ tất nhiên tôi phải chờ cho ông bạn đồng-nghiệp thanh toán xong con lợn để giải -quyết cho mấy chai nước biển rồi mới hân-hoan ra về. Ra tới cổng, tôi gặp lại đám dân-chúng cũng đang hân hoan thở phào nhẹ nhõm như tôi khi được tin bác-sĩ đã mổ xong... lợn.
Trên đường về, lần này chiếc đòn gánh đè nặng lên vai không còn cho tôi cảm-giác đau đớn như trước nửa, vì đầu óc tôi đang bị ám-ảnh bởi một ý-tưởng muôn phần nặng-nề hơn, vì tôi đã nhìn thấy được sự thật, đã chứng-kiến tận mắt một hiện-tượng sinh-hoạt phản-ảnh lối sống của những "đồng-nghiêp" bên kia bức màn tư-tưởng.

Phương-vũ VÕ Tam-Anh.

No comments:

Post a Comment